KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ IMATINIB TRONG ĐIỀU TRỊ U MÔ ĐỆM ĐƯỜNG TIÊU HÓA TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ TỪ 2013 ĐẾN 2019

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ IMATINIB TRONG ĐIỀU TRỊ U MÔ ĐỆM ĐƯỜNG TIÊU HÓA TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ TỪ 2013 ĐẾN 2019

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ IMATINIB TRONG ĐIỀU TRỊ U MÔ ĐỆM ĐƯỜNG TIÊU HÓA TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ TỪ 2013 ĐẾN 2019
Đặng Hoàng An1, Phạm Như Hiệp1
Nguyễn Thanh Ái1, Mai Đình Điểu, Phạm Nguyên Tường.

Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu tiến cứu 74 trường hợp u mô đệm dạ dày nguy cơ trung bình và cao điều trị Imatinib mesylate (Glivec) trong thời gian từ 2013-2019 tại Trung tâm Ung Bướu – Bệnh viện Trung ương Huế
Kết quả:
Tuổi mắc cao 56 – 65 tuổi (39,2%); Tuổi mắc trung bình chung hai giới 56,54 ± 10,47 tuổi (29 – 84 tuổi). Nam : Nữ = 1 : 1,3. Đau bụng lan tỏa chiếm cao 66,2%; Thời gian khởi phát 4,31 ± 3,11 tháng ( 1- 13 tháng). U dạ dày xâm lấn rộng chiếm tỷ lệ cao 41%, (thân vị – bờ cong lớn). Di căn gan gặp tỉ lệ 41,9%, ổ bụng tỉ lệ 45,2% trong số bệnh di căn.

Kết luận: Điều trị bổ trợ phối hợp phẫu thuật và Imatinib trong u biểu mô đệm đường tiêu hóa tác dụng phụ ít và cải thiện thời gian sống

U mô đệm được đăt ra vào năm 1983 bởi Clark và Mazur cho các khối u cơ trơn đường tiêu hóa (GIT). Khối u mô đệm đường tiêu hóa (GIST) là các khối u không phải biểu mô phát sinh từ các tế bào kẽ của Cajal. U mô đệm đường tiêu hóa (GIST) chiếm khoảng 0,1 đến 3% ung thư đường tiêu hóa [12]. Thông thường, GISTs thường xuất hiện ở những người tuổi trung niên, đỉnh điểm là khoảng 58 tuổi, tỉ lệ như nhau ở cả 2 giới [11]. Tỉ lệ u GISTs tăng cao trong nhiều năm gần đây, phương pháp xác định những khối u trung mô tốt nhất hiện nay là.

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ IMATINIB TRONG ĐIỀU TRỊ U MÔ ĐỆM ĐƯỜNG TIÊU HÓA TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ TỪ 2013 ĐẾN 2019

Leave a Comment