Nghiên cứu các tổn thương xương ở bệnh nhân đau tuỷ xương (bệnh kahler)

Nghiên cứu các tổn thương xương ở bệnh nhân đau tuỷ xương (bệnh kahler)

Xương sườn có tỉ lê mất chất khoáng cao nhất: 88,9%, tiêu xương: 75,5% BN. Nguyễn Đình Khoa cũng nhân thấy tiêu xương sườn: 75% số BN [5]. Cột sống, xương châu và xương đòn đều có tỉ lê mất chất khoáng là 82,2%. Cho thấy mất chất khoáng xảy ra gần như đổng thời trên các xương này. Xương đùi gặp 10% tổn thương tâp trung ở đầu trên. Nguyễn Đình Khoa cũng thấy, tổn thương ở xương đùi hay gặp ở đầu trên [5].

Tính chất tổn thương và các loại hình ảnh tổn thương

Chủ yếu tổn thương lan toả. 100% ở xương sọ, xương sườn, xương bả, xương đòn. 85,2% ở xương châu. Bergsagel D.E [10], Phạm Hoàng Phiêt [6] nhân thấy các hình ảnh tổn thương tiêu, khuyết xương thường lan toả, 60 – 85% tuỳ vị trí .

Tổn thương khu trú 8 trường hợp: xương châu (4), xương đùi (2), cột sống (2). Chúng tôi thấy 9 BN dưới 40 tuổi, có 5 BN có tổn thương, 4 BN tổn thương khu trú. Phạm Hoàng Phiêt cho rằng: tổn thương khu trú BN thường trẻ và tiến triển châm trong nhiều năm, nhạy cảm với tia xạ [6]. Vởy trước một BN tuổi dưới 40, có tổn thương khu trú trên XQ cần phải nghĩ đến ĐUTX để làm các xét nghiêm chẩn đoán để có hướng xử trí sớm.

Tổn thương hình hốc (punched-out) gặp tất cả ở các xương với tỉ lê cao: 94,1% ở xương sườn, 88,9% ở xương đòn và xương đùi. Cột sống và xương bả gặp hình ảnh này lần lượt là 78,9% và 90,9%.

Gãy xương: 75,6%. Xẹp đốt sống: 64,4%. Biến dạng từ 2 đốt sống trở lên (xẹp, hình chêm, thấu kính lõm): 71,1%. Nguyễn Đình Khoa cũng gặp 74,1% có biến dạng từ 2 đốt sống trở lên [5]. Kết quả này khác với tác giả Hữu Thị Chung [4] (gãy xương 75,6% so với 55%) (p > 0,05).

2.2.2 Canxi máu toàn phần

Có 34,9% BN có giá trị canxi máu > 2,5 mmol/l, 16,0% BN > 3 mmol/l. Nghiên cứu của Nguyễn Đình Khoa [5] cũng gặp: 32,2% BN có canxi máu > 2,5 mmol/l và 16,1% BN > 3 mmol/l.

Chúng tôi gặp 22,6%, trong khi Bergsagel D. E [10] gặp 30% BN có canxi máu > 2,75 mmol/l. Sự khác biệt là do mức đô TTX ở hai nhóm nghiên cứu có thể là khác nhau, và nguyên nhân khác là do chế đô ăn ít canxi hơn ở người Việt Nam so với người Châu Âu. Thực tế’ trong nghiên cứu có đến 47,2% BN canxi máu giảm. 65,1% BN canxi máu không tăng. Nguyễn Đình Khoa [5]: 67,8% BN canxi máu không tăng. Bởi vây khi canxi máu không tăng cũng chưa loại trừ ĐUTX, và khi tăng phải nghĩ đến bệnh lý ác tính có huỷ xương, có ĐUTX.

2.2.3 Phosphatase kiềm máu

Có 9 (18,4%) BN có giá trị phosphatase kiềm máu tăng. Trong ĐUTX phosphatase kiềm máu tăng, song có thể bình thường [2][8]. Do số liệu ít, nên vấn đề này cần nghiên cứu sâu thêm.

2.2.4. Lactat dehydrogenase (LDH)

Có 19/37 (51,4%) số BN có giá trị LDH tăng. Theo tác giả Kyle R.A, trong ĐUTX có tăng LDH là môt tiên lượng xấu. Tuy nhiên, chúng tôi không thấy mối liên quan giữa LDH tăng và tổn thương tiêu, khuyết xương. Do số liệu của nghiên cứu này còn ít, cần phải tiến hành các nghiên cứu khác sâu thêm.

2.2.5. Protein Bence – Jones

Tỉ lệ dương tính: 6,7%. Nghiên cứu của Lê Quế, tỉ lệ dương tính: 27% [7]. Theo Phạm Hoàng Phiệt [6] chuỗi nhẹ thấy trong nước tiểu: 50% BN. Dan L. Longo [12]: chỉ gặp chuỗi nhẹ trong nước tiểu của khoảng 20% BN ĐUTX [12].

Phương pháp phát hiện âm tính giả 50% [3], chúng tôi không có điều kiện định lượng Ig miễn dịch ở tất cả các BN nghiên cứu, nên chưa lý giải được tỉ lệ protein Bence – Jones thấp trong nghiên cứu này.

2.2.6. Mức độ tăng sinh tế bào plasmo trong tuỷ

Tỉ lệ tế’ bào plasmo tuỷ dao đông: 3 – 97%, trung bình 35,07 ± 22,41%. Tỉ lệ plasmo > 10% là 81,5%. Tác giả Thomas C. Bithell: ít nhất 5 – 10% tế’ bào plasmo trong tuỷ ở BN ĐUTX[13]. Nguyễn Đình Khoa: tế’ bào plasmo trong tuỷ thay đổi từ 4 – 97%, trung bình 36,40 ± 24,5% [5].

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment