SÀNG LỌC TRƯỚC SINH KHÔNG XÂM LẤN NIPT VÀ ỨNG DỤNG TRÊN 7015 THAI PHỤ TẠI TRUNG TÂM XÉT NGHIỆM QUỐC TẾ GENTIS
SÀNG LỌC TRƯỚC SINH KHÔNG XÂM LẤN NIPT VÀ ỨNG DỤNG TRÊN 7015 THAI PHỤ TẠI TRUNG TÂM XÉT NGHIỆM QUỐC TẾ GENTIS
Dương Chí Thành1, Nguyễn Văn Huynh1, Nguyễn Quang Vinh1, Phạm Đình Minh1
1 Công ty Cổ phần Phân tích Di truyền (Gentis)
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Dị tật bẩm sinh là vấn đề toàn cầu ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng cuộc sống. Trong số những nguyên nhân đã biết, bất thường di truyền là nguyên nhân phổ biến nhất gây dị tật bẩm sinh. Những năm gần đây kỹ thuật sàng lọc DNA trước sinh không xâm lấn là một bước tiến lớn trong sàng lọc trước sinh, cho phép sàng lọc ở thời điểm sớm hơn và giảm nguy cơ sảy thai do phải sử dụng các biện pháp xâm lấn. Áp dụng kỹ thuật NIPT, chúng tôi tiến hành đề tài này với mục tiêu: Đánh giá tương quan tỷ lệ lệch bội nhiễm sắc thể với các yếu tố nhóm tuổi thai phụ và kết quả sàng lọc huyết thanh mẹ. Phương pháp: thực hiện kỹ thuật NIPT với bộ kit Truseq Nano DNA LT (Illumina) và giải trình tự trên máy Nextseq 550 (Illumina) cho 7015 thai phụ. Chúng tôi thu được kết quả: phát hiện tỷ lệ thai bị Down là 1,28%, trisomy 18 là 0,24% và trisomy 13 là 0,2%. Kết luận: Tỷ lệ mắc Down là cao nhất, tuổi mẹ cao làm tăng nguy cơ con mắc Down; thực hiện kỹ thuật NIPT làm giảm 98,25% thai phụ phải chọc ối.
Ở Việt Nam, 2,01% các trường hợp tử vong do bệnh có nguyên nhân dị tật, dị dạng bẩm sinh và bất thường nhiễm sắc thể [2]. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy lệch bội nhiễm sắc thể là nguyên nhân phổ biến nhất gây dị tật bẩm sinh và sảy thai, chiếm 5% trong tổng số các trường hợp mang thai [6]. Có tới 0,3% tổng số các ca trẻ sinh sống mang lệch bội nhiễm sắc thể, trong đó chủ yếu là trisomy 21 và lệch bội nhiễm sắc thể giới tính [6]. Hội chứng Down là dạng lệch bội nhiễm sắc thể phổ biến nhất trong các trường hợp sinh sống với tỉ lệ khoảng 1/700 ca đẻ sống [9]. Nguyên nhân phổ biến nhất gây nên 95% các trường hợp Down là do bất thường số lượng nhiễm sắc thể, cụ thể là thừa 1 nhiễm sắc thể thứ 21 (trisomy21). Các nguyên nhân khác có thể kể đến là Chuyển đoạn hòa hợp tâm (Robertsonian translocation)chiếm 2-4%, nhiễm sắc thể đều/nhiễm sắc thể hình vòng và hội chứng Down thể khảm. Hầu hết người bệnh đối mặt với những ảnh hưởng nghiêm trọng về sức khỏe và khả năng học tập, dị dạng sọ mặt, thính lực, thị lực, giảm trương lực cơ và các dị tật tim ở giai đoạn sơ sinh… Hội chứng Edwards (trisomy 18) và hội chứng Patau (trisomy 13) là 2 dạng lệch bội nhiễm sắc thể phổ biến chỉ sau hội chứng Down với tỉ lệ lần lượtlà 1/3000 và 1/6000[9]. Ngoài nguyên nhân chính là dư thừa số lượng nhiễm sắc thể, các nguyên nhân liên quan đến bất thường chuyển đoạn nhiễm sắc thể và bất thường thể khảm chiếm hơn 2% các trường hợp mắc hội chứng Edwards và 9% các trường hợp mắc hội chứng Patau. Thai nhi mắc hội chứng Edwards hoăc hội chứng Patau thường có nguy cơ cao chết trong bụng mẹ hoặc trong 2 tuần đầu sau khi sinh. Những trẻ sống sót sau khi sinh có tỷ lệ mắc các dị tật liên quan rất cao, đặc biệt là các dị tật về tim và hệ thần kinh. Đối với hội chứng Edwards, triệu chứng lâm sàng phổ biến bao gồm dị tật tim (thân chung động mạch, chuyển vị của các động mạch lớn, tâm thất đơn, thông liên nhĩ thất, tứ chứng Fallot, không lỗ van 3 lá và hẹp, dị thường Ebstein, khuyết tật van phổi, thiểu sản/hẹp van động mạch chủ, tim trái giảm sản