Sử dụng thuốc có cửa sổ điều trị hẹp trong ghép tạng

Sử dụng thuốc có cửa sổ điều trị hẹp trong ghép tạng

Sử dụng thuốc có cửa sổ điều trị hẹp trong ghép tạng
Hà Phan Hải An1
1 Trường Đại học Y Hà Nội
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Sử dụng thuốc ức chế miễn dịch an toàn, hiệu quả để đạt lợi ích điều trị tối ưu cho người bệnh ghép tạng là một vấn đề luôn được quan tâm. Để cân bằng an toàn – hiệu quả, nhà lâm sàng cần hiểu rõ các đặc tính về dược động học, dược lực học của thuốc, và các công cụ giúp duy trì nồng độ mục tiêu như theo dõi nồng độ thuốc, đặc biệt là với các thuốc có cửa sổ điều trị hẹp như ức chế calcineurin. Bên cạnh đó, sự ra đời của nhiều loại thuốc cùng hoạt chất dưới áp lực kinh tế cũng là một thách thức cho các nhà lâm sàng. Bài tổng quan trình bày một số khái niệm cơ bản trong sử dụng thuốc có cửa sổ điều trị hẹp, một số đặc tính của thuốc ức chế calcineurin, các yêu cầu về tính tương đương sinh học để thuốc được đưa vào sử dụng lâm sàng an toàn hiệu quả, và một số điểm cần lưu ý khi sử dụng các thuốc thay thế cho thuốc gốc nhóm ức chế calcineurin trong ghép tạng.

Ghép tạng là một can thiệp điều trị cứu mạng và mang lại chất lượng cuộc sống tốt hơn cho người bị suy tạng giai đoạn cuối. Kết quả ghép tạng phụ thuộc rất nhiều vào thuốc ức chế miễn dịch để ngăn ngừa thải ghép.1 Trong hai thập niên đầu của kỷ nguyên ghép tạng, thải ghéplà nguyên nhân gây mất tạng ghép ở giai đoạn sớm.2 Những năm gần đây tỷ lệ sống 5 năm của tạng ghép đã cải thiện đáng kể. Dữ liệu về ghép tạng của hơn 400 trung tâm từ 42 quốc gia, đánh  giá  các  khía  cạnh  khác  nhau  trên hơn 800.000 người bệnh ghép thận, tim, phổi, gan, và tụy, so sánh giai đoạn trước năm 2000 với sau năm 2000, cho thấy tỷ lệ này ở thận ghép tăng từ 74,1% lên 86,1% với người hiến sống và 61,5% lên 76,2% với người hiến khi chết; tim – từ 66,4% lên 72,4%; gan – từ 58,8% lên 68,4%; tụy – từ 55,3% lên 65,6%; phổi – từ 42,6% lên 56,7%; và khối tim phổi – từ 40,8% lên 56,3%.3 Ngay cả người ngoài 70 tuổi đượcghép thận cũng có trung vị thời gian sống sau ghép tăng từ 3,7 năm giai đoạn 1990 – 1999 lên trên 6,7 năm giai đoạn 2000 – 2007.4 Thay đổiphác đồ ức chế miễn dịch duy trì là một trong các yếu tố tác động tích cực lên kết quả ghép.Sau  ghép  tạng,  tế  bào  trình  diện  kháng nguyên gắn với thụ thể của tế bào T để phát tín hiệu 1, phân tử đồng kích thích trên tế bào trình diện kháng nguyên gắn với phối tử tương ứng trên tế bào T để phát tín hiệu 2; hai tín hiệu này là cần thiết để hoạt hóa tế bào T và dẫn đến sự chế tiết interleukin 2 (IL – 2) và 1 số yếu tố khác để phát tín hiệu 3, khởi động tăng sinh tế bào T và quá trình đáp ứng thải ghép. Ngoài phản ứng thải ghép cấp liên quan đếnkháng thể kháng người hiến có sẵn hay qua trung gian tế bào T, các kháng thể đặc hiệu do tế bào B sản xuất phối hợp bổ thể, bạch cầu và nhiều yếu tố khác gây tổn thương mạch máu mạn và thải ghép mạn. Các chế độđiều trị ức chế miễn dịch coi các con đường tín hiệu này là mục tiêu tác độngđể ngăn ngừa thải ghép.

 

Sử dụng thuốc có cửa sổ điều trị hẹp trong ghép tạng

Leave a Comment