YẾU TỐ NGUY CƠ CHẢY MÁU TÁI PHÁT CỦA BỆNH NHÂN U MẠCH THỂ HANG NÃO

YẾU TỐ NGUY CƠ CHẢY MÁU TÁI PHÁT CỦA BỆNH NHÂN U MẠCH THỂ HANG NÃO

YẾU TỐ NGUY CƠ CHẢY MÁU TÁI PHÁT CỦA BỆNH NHÂN U MẠCH THỂ HANG NÃO
Võ Hồng Khôi1,2,3, Nguyễn Huệ Linh3
1 Trung tâm Thần kinh Bạch Mai
2 Đại học Y Hà Nội
3 Đại học Y Dược Đại học Quốc Gia HN
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Phân tích yếu tố nguy cơ chảy máu tái phát của các bệnh nhân bị u mạch thể hang não tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 08/2018- 08/2019. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 45 bệnh nhân. Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ là 1/1, tuổi trung bình của các đối tượng nghiên cứu là 43,6. Vị trí tổn thương có 53,4% trường hợp tổn thương nằm trên lều tiểu não, 42,2% trường hợp tổn thương nằm dưới lều tiểu não và 4,4% trường hợp có cả tổn thương trên và dưới lều, trong 45 bệnh nhân có 52 tổn thương trong đó vị trí tổn thương thường gặp nhất ở thùy trán (21,1%), thứ hai là cầu não (17,3%). Hầu hết bệnh nhân có tổn thương kích thước dưới 30mm (96,2%), tổn thương thường biểu hiện bằng tín hiệu hỗn hợp trên xung T1W (55,6%), hỗn hợp trên xung T2W(53,3%), giảm tín hiệu trên T2*(100%). Không có mối tương quan giữa chảy máu tái phát với tuổi (p = 0,486), giới (p = 0,912), vị trí (p = 0,512), kích thước của tổn thương (p = 0,456). Kết luận: U mạch thể hang xuất hiện ở cả hai giới với tỷ lệ tương đương nhau, tuổi, giới của bệnh nhân và vị trí, kích thước của tổn thương không phải là yếu tố nguy cơ của chảy máu não tái phát.

U  mạch  thể  hang  (cavernous  malfomation, CMs) là cụm mạch máu  bất thường, thiếu  hụt các thành phần cấu trúc  (lớp cơ trơn, sợi đàn hổi) nên các tế bào liên kết lỏng lẻo, dễ chảy máu,  có  thể  được  tìm  thấy  ở  mọi  nơi  của  hệ thống thần kinh trung ương, như đại não, tiểu não, thân não, tủy sống…Bệnh có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi, đa số không gây ra các biểu hiện lâm  sàng,  nhưng  u  mạch  thể  hang  có  thể  có những triệu chứng như động kinh, đau đầu, hoặc chảy máu dẫn đến các thiếu sót thần kinh khu trú làm ảnh hưởng nặng nề tới chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và có thể gây tử vong.U  mạch  thể  hang  của  não  là  một  dị  dạng mạch  máu  với  tỷ  lệ  mắc  bệnh  trong  dân  số chiếm từ 0,4%-0,8%, và là loại bất thường mạch não phổ biến nhất, chiếm 10-25% của tất cả các loại  dị  dạng  mạch  máu  não,  với  nguyên  nhân được cho là bẩm sinh.1U mạch thể hang lần đầu tiên được phát hiện ngẫu nhiên bởi Luschka năm 1853 là một tổn thương ở thùy trán trái. Năm 1863, Vichow lần đầu tiên mô tả về giải phẫu bệnh học của u mạch thể hang ở bán cầu đại não. Trong hơn 100 năm sau đó, do sự hạn chế về các phương tiện chẩn đoán hình ảnh nên đặc điểm tổn thương và những mô tả lâm sàng chỉ thông qua hồi cứu trên mổ tử thi.Đến những năm 70 -80 của thế kỷ XX, khi chẩn đoán hình ảnh phát triển,nhờ cắt lớp vi tính và đặc biệt là cộng hưởng từ mà u mạch thể hang bắt đầu được hiểu rõ hơn về bản chất, phát hiện sớm hơn, nhiều hơn, giúp các bác sĩ có thể mô  tả  tổn  thương  một  cách  kĩ  càng  và  thống nhất, có ích rất lớn trong theo dõi và điều trị bệnh.Ở Việt Nam, tuy đã có các phương tiện chẩn đoán và điều trị tương đối đầy đủ về u mạch thể hang nhưng các nghiên cứu về bệnh còn rất hạn chế.  Chính  vì  vậy,  chúng  tôi  tiến  hành  nghiên cứu nhằm khảo sát và đưa ra nhận xét về đặc điểm lâm sàng, hình ảnh cộnghưởng từ và yếu tố nguy cơ chảy máu tái phát của bệnh nhân u mạch thể hang não.

YẾU TỐ NGUY CƠ CHẢY MÁU TÁI PHÁT CỦA BỆNH NHÂN U MẠCH THỂ HANG NÃO

Leave a Comment