15 NĂM KINH NGHIỆM PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ MỒ HÔI TAY QUA NỘI SOI LỒNG NGỰC

15 NĂM KINH NGHIỆM PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ MỒ HÔI TAY QUA NỘI SOI LỒNG NGỰC

 Ướt bàn tay do mồ hôi là hội chứng thường gặp ở người lao động trẻ, gây trở ngại lao động học tập và giao tiếp, 

Điều trị hiệu quả nhất là cắt thần kinh giao cảm (TKGC) ngực. Ngày nay không còn ai xử dụng mổmởVềNSLN, lỗ trocar vào ngực trên  đường nách giữa  ở người bệnh nằm nghiêng. Nếu muốn thực hiện phẫu thuật bên kia thì phải xoay người bệnh. Với kỹ thuật này, phải mổ 2 lần ở 1 người bệnh. Cắt bỏ  đoạn TKGC từ sườn 2  đến sườn 4 thường gây  đổ mồ hôi bù trừ(MHBT) cao, là một biến hứng rất khó  điều trị. Nhiều báo cáo cho thấy kết quả khô bàn tay  đạt trên 98% nhưng tỉlệ  đổMHBT có thể lên đến 70%. 
Mục tiêu:
– NC cải tiến thế nằm và đường vào ngực để có thể thám sát và cắt TKGC ngực 2 bên ở1 thế nằm trong 1 lần mổ. 
– NC cải tiến phẫu thuật để có thể giảm tiết MHBT. 
Phương pháp và đối tượng: 
– Cải tiến thế nằm, đường mổ: 
– Người bệnh nằm sấp hay nằm ngửa sau khi gây mê với thông NKQ cho xẹp phổi từng bên. 
– Soi và mổ qua 2 lỗhay 1 lỗ vào ngực trên  đường nách sau (nằm sấp) hay nách trước (nằm ngửa) 
– Cải tiến PP phẫu thuật: Cắt đứt ngang TKGC trên sườn 2 và 3 thay vì cắt bỏ cả đoạn thần kinh. 
– Trang thiết bị: Máy nội soi Olympus và Storz với camera 0, trocar ngắn không van 10mm (hay 7mm) và 5mm. 
– Bệnh nhân: 3288 BN bị  ướt bàn tay do MH, gây trở ngại lao  động, học tập, sinh hoạt, giao tiếp, yêu cầu được điều trị tại BV Bình Dân từ tháng 8 năm 1996 đến tháng 6 năm 2009.
  Kết quả:Nhóm 1 có 102 và nhóm 2 có 3186. Trừ1 BN không thể thực hiện phẫu thuật vì không đặt được  ống nội khí quản  để gây mê và 14 BN chỉ cắt  được TKGC 1 bên vì bên kia phổi dính nhiều vào lá thành, kết quả phẫu thuật đạt được như sau: 
–  Tỉ lệ khô bàn tay sau mổ  ở nhóm 1 là 97,3%, nhóm 2 là 96,8%. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. 
–  Tỉlệ  đổ MHBT ở các nơi khác trên cơ thể  ở nhóm 1: 41%,  ở nhóm 2: 24%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
–  Tỉlệ đổ mồ hôi bù trừ nhiều gây nhiều phiền phức ở nhóm 1 là 4%, ởnhóm 2 là 0%. 
–  Thời gian mổ và số lỗ trocar vào ngực giảm ở nhóm 2, từ2 đến còn 1 lỗ so với nhóm 1, 3 lỗ. 
–  Ở nhóm 1 có 1 BN, ở nhóm 2 có 5 BN phải dẫn lưu màng phổi trong 24 giờ.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment