Ảnh hưởng của chất da cam/dioxin đối với sức khỏe sinh sản tại một khu vực bị rải chất diệt cỏ chiến tranh ở Việt Nam

Ảnh hưởng của chất da cam/dioxin đối với sức khỏe sinh sản tại một khu vực bị rải chất diệt cỏ chiến tranh ở Việt Nam

61% của chất diệt cỏ và rụng lá do quân đội Mỹ rải tại miền Nam Việt Nam từ năm 1962 đến năm 1971 là chất Da cam, một hỗn hợp 50:50 giữa 2,4,5-T và 2,4-D. Chất tạp nhiễm khi sản xuất 2,4,5-T còn    gọi    là Dioxin là một    chất    kịch    độc    đối với    sức    khỏe    con
người. Những bằng chứng nghiên cứu khoa học vẫn chưa đủ sức thuyết phục để chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa phơi nhiễm Dioxin với tai biến sinh sản. Mục tiêu của nghiên cứu này    nhằm    chứng minh    mối    liên quan    giữa    việc phơi    nhiễm    Chất    Da cam/Dioxin ở
những người phụ nữ sống ở vùng bị rải chất diệt cỏ chiến tranh và nguy cơ đối với tai biến sinh sản bao gồm: sẩy thai tự nhiên, chết lưu, đẻ non và sinh con dị tật bẩm sinh. Một nghiên cứu hồi cứu được tiến hành trên 963 hộ gia đình tại một vùng bị rải chất diệt cỏ trong chiến tranh và 903 hộ gia đình ở vùng đối chứng. Phân tích hồi quy đa biến được sử dụng để chuẩn hóa các yếu tố nhiễu như tuổi khi mang thai, số lần mang thai, hút thuốc lá, uống rượu, dùng thuốc tránh thai, sử dụng thuốc trừ sâu. Kết quả cho thấy nhóm phụ nữ sinh sống tại vùng bị rải có nguy cơ tăng cao với tai biến sinh sản gần 3 lần so với nhóm sống ở khu vực không bị rải. Nghiên cứu theo dõi với thiết kế hoàn chỉnh cần được tiến hành để tìm hiểu rõ hơn về mối quan hệ nhân quả giữa phơi nhiễm AO/dioxin với tai biến sinh sản tại khu vực bị rải chất diệt cỏ chiến tranh.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Uớc tính có từ 160 đến 600 kg Dioxin tồn lưu trong môi trường Việt Nam là hậu quả của hơn 80 triệu lít chất diệt cỏ do quân đội Mỹ rải tại miền Nam Việt Nam từ năm 1962-19711-2. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh TCDD gây ra hậu quả về sức khỏe sinh sản và phát triển ở trẻ em, tuy nhiên nghiên cứu vẫn chưa chỉ ra được vai trò phơi nhiễm của bố hay mẹ trong mối liên quan đến các tai biến như sẩy thai tự nhiên, thai chết lưu, đẻ non, và dị tật bẩm sinh3. Tương tự như vậy, các nghiên cứu dịch tế cũng chưa cung cấp đủ bằng chứng về mối quan hệ nhân quả giữa phơi nhiễm Dioxin với các tai biến sinh sản do những hạn chế nhất định trong việc định nghĩa sự phơi nhiễm, kiểm soát các yếu tố gây nhiễu, và kết quả của các nghiên cứu còn chưa ổn định3.
Kết quả khảo sát gần đây cho thấy sự hiện hữu của TCDD do hậu quả chiến tranh vẫn còn trong môi trường ở Việt nam (Đất, cặn bùn, cá nuôi, vịt, gà) và trong cơ thể con người (máu, sữa). Các nghiên cứu viên đã cho rằng Dioxin tồn lưu trong đất, cặn bùn xâm nhập vào cơ thể động vật và sau đó vào cơ thể con người qua chuỗi thức ăn là đường phơi nhiễm chính của dioxin tại các vùng bị ô nhiễm4″5. Hầu hết các nghiên cứu dịch tễ học được tiến hành tại Việt nam trước đây đều cho thấy nguy cơ tăng cao đối với tai biến sinh sản gặp ở nhóm đối tượng cựu chiến binh đi B và cư dân sinh sống tại các khu vực bị rải chất diệt cỏ chiến tranh6. Tuy nhiên những nghiên cứu này có một số hạn chế nhất định như xác định phơi nhiễm dioxin chỉ dựa trên kết quả hồi cứu số liệu rải mà không có xét nghiệm môi trường cụ thể, hạn chế trong kiểm soát các yếu tố nhiễu khi phân tích, và hầu hết các nghiên cứu đều không đăng báo khoa học Quốc tế.
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm xác định mối liên quan giữa phơi nhiễm AO/dioxin của phụ nữ sinh    sống    ở vùng bị rải chất    diệt    cỏ và tai    biến    sinh    sản    bao gồm    sẩy    thai tự nhiên, thai chết lưu, đẻ non, và sinh con dị tật bẩm sinh. Nghiên cứu này nhằm khắc phục một số hạn chế gặp phải của các nghiên cứu trước đây bằng việc sử dụng phương pháp hồi qui đa biến để kiểm soát phân tích các yếu tố nhiễu.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Xã Cam Chính, Huyện Cam Lộ thuộc Tỉnh Quảng Trị, một xã bị rải chất diệt cỏ trong chiến tranh, được đưa vào nghiên cứu. Xã Cẩm Phúc, Huyện Cẩm Xuyên thuộc Tỉnh Hà Tĩnh, một xã không bị rải chất diệt cỏ trong chiến tranh, có những điều kiện dân cư và kinh tế xã hội tương đối giống với xã Cam Chính được chọn làm xã đối chứng.
Một khảo sát đơn giản để xác định sự tồn lưu của TDD tại hai xã nghiên cứu. Dựa trên thông tin bản đồ băng rải chất diệt cỏ và thông tin phỏng vấn tại địa phương, 6 mẫu đất và 4 mẫu cặn bùn được lấy tại địa điểm có gần căn cứ quân sự tại xã Cam chính, và các mẫu này được lấy ở độ sâu 0-10cm. 6 mẫu sinh phẩm bao gồm mỡ, gan và cơ gà, cá cũng được lấy tại hai khu vực nghiên cứu. Toàn bộ các mẫu trên được phân tích Dioxin tại labo VECAC của Ban 10-80, Bộ Y tế.
Nghiên cứu hồi cứu phỏng vấn được tiến hành với 963 hộ gia đình tại xã Cam chính và 903 hộ gia đình tại xã Cẩm phúc. Các hộ gia đình này được chọn lựa từ danh sách quản lý dân số, hộ khẩu của Ủy ban nhân dân xã. Mỗi phụ nữ có tiền sử sinh sản của hộ gia đình được phỏng vấn bởi cán bộ y tế của Trung Tâm y tế Huyện đã được tập huấn. Thông tin thu thập bao gồm thói quen cá nhân như hút thuốc, uống rượu, sử dụng thuốc tránh thai, sử dụng thuốc trừ sâu, số lần mang thai, tuổi khi mang thai, tiền sử sinh sản. Tai biến sinh sản được định nghĩa trong nghiên cứu này bao gồm sẩy thai tự do, thai chết lưu, đẻ non, và sinh con dị tật bẩm sinh dựa trên định nghĩa của March of Dimes về tai biến sinh sản.
Số liệu được nhập vào máy tính theo chương trình EPI INFO 6.04 và chuyển đổi sang chương trình Stata 9.0 để phân tích. Tỷ lệ thô tai biến sinh sản (/1000 lần mang thai năm) và độ lệch chuẩn được tính toán và so sánh giữa hai khu vực nghiên cứu. Do quân đội Mỹ bắt đầu rải chất diệt cỏ từ năm 1962, các trường hợp thai sản từ trước năm 1962 được loại khỏi diện phân tích. Tỷ lệ tai biến sinh sản được tính toán tách biệt theo từng loại TBSS, nhóm tuổi của bà mẹ, và thời điểm mang thai. Để chuẩn hóa các yếu tố nhiễu (tuổi khi mang thai, số lần mang thai, sử dụng thuốc trừ sâu, hút thuốc lá, uống rượu, thuốc tránh thai), phương

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment