Ảnh hưởng của Hải Mã và Hải Mã-Nhân Sâm lên cấu trúc hình thái tinh hoàn chuột cống trắng

Ảnh hưởng của Hải Mã và Hải Mã-Nhân Sâm lên cấu trúc hình thái tinh hoàn chuột cống trắng

Hiện nay, tình trạng suy giảm chức năng sinh dục ở nam giới khá cao. Theo Trần Quán Anh,  tình  trạng  vô  sinh  của  những  cặp  vợ chồng ở cộng đồng là 15% trong đó nguyên nhân do nam giới chiếm xấp xỉ 50% [1]. Một điều tra của Phạm Văn Trịnh cho thấy tình trạng rối loạn cương dương chiếm từ 15,7% ở tuổi 41-50; 28-57% ở tuổi trên 60 [6]. Cùng với việc áp dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, việc tìm ra những cây, con thuốc có tác dụng cải thiện chức năng sinh dục nam là một việc làm cần thiết.
Hàng ngàn năm nay, trong Y học cổ truyền, Nhân sâm (NS), Hải mã (HM) là những dược liệu quí, có giá trị lớn trong chữa bệnh và tăng cường sức khoẻ [2], [3]. Trong các thử nghiệm lâm sàng, nhiều bằng chứng khoa học chứng minh rằng Nhân sâm có giá trị trong điều trị hội chứng stress, tăng cường năng lượng, phục hồi sức khoẻ, phục hồi trạng thái kiệt sức, tăng cường khả năng đáp ứng miễn dịch của cơ thể, cải thiện trí nhớ, ngăn cản trạng thái mệt mỏi, phòng bệnh, làm mạnh mẽ cơ thể, cải thiện khả năng hoạt động tình dục [2]. Hải mã thường được dùng làm thuốc bổ thận, tráng dương giúp cải thiện tình trạng bất lực hoặc chậm có con [3].
Với mục đích từng bước nghiên cứu ảnh hưởng của Hải Mã và Nhân sâm đến hệ sinh dục nam, công trình nghiên cứu này được tiến hành nhằm tìm hiểu những biến đổi của cấu trúc hình thái tinh hoàn chuột cống trắng sau khi uống các chế phẩm của hai dược liệu này.
I. chất liệu, đối tượng và  phương pháp nghiên cứu
1. Chất liệu nghiên cứu
+ Thân rễ sâm Việt Nam (Panax Vietnamensis) 5 năm tuổi trở lên.
+ Hải mã (Hippocampus) họ Hải long Syngnathidae loại Hải mã gai.
Cả 2 vị thuốc đều được bào chế và đóng thành  viên  nang  tại  Viện  D−ợc liệu  Trung
−ơng.
2. Đối tượng nghiên cứu
+ 85 chuột cống trắng đực, chủng Rattus, 2 tháng tuổi, có trọng lượng trung bình là: 147,8

Đề tài được thực hiện tại bộ môn Mô phôi, Sinh lý học, Đại học Y Hà Nội.

± 27,8g.được nuôi trong phòng thí nghiệm với cùng điều kiện nhiệt độ, độ ẩm, thời gian sáng/ tối là 12/12 h. Thức ăn và nước uống được cung cấp đầy đủ.
3. Liều dùng và phân nhóm thí nghiệm
+ Liều dùng: liều I =120mg/100g trọng l−ợng chuột/ngày.
liều II = 240mg/100g trọng l−ợng chuột/ngày.
Loại kết hợp HM+NS đ−ợc đóng viên nang liều 1/1.
+ Cách dùng: bằng đ−ờng uống. Hàng ngày cho chuột uống thuốc vào lúc 9 h sáng, sau 15 phút cho chuột ăn và uống n−ớc nh− bình th−ờng. Cho uống thuốc liên tục trong 2 tuần.
Hết 2 tuần, giết chuột bằng cách cắt đầu: mổ, tách lấy tinh hoàn.
Chuột đ−ợc chia làm 5 nhóm: 1. Nhóm chứng (17 con) uống n−ớc cất; 2. Nhóm uống Hải mã liều I (17 con); 3. Nhóm uống Hải mã liều II (17 con); 4. Nhóm uống Hải mã + Nhân sâm liều I (17 con); 5. Nhóm uống Hải mã + Nhân sâm liều II (17 con).
4. Kỹ thuật tách lấy tinh hoàn.
Sau 2 tuần uống thuốc, giết chuột bằng cách cắt đầu, mở bìu chuột để bộc lộ tinh hoàn, bóc tách  nhẹ  nhàng,  cắt  lấy  toàn  bộ  tinh  hoàn chuột, cố định trong dung dịch Bouin.
5. Hoàn thành tiêu bản mô học
Cắt tinh hoàn thành miếng theo mặt cắt ngang các ống sinh tinh. Cố định tiếp bằng Bouin. Đúc khối paraffine. Cắt lát mỏng, mỗi lát có chiều dày 5 đến 7àm. Mỗi tinh hoàn lấy 5 lát, mỗi lát cách nhau khoảng 30 àm. Nhuộm 2 mầu Hematoxylin – Eosin.
6. Nhận định kết quả và chỉ tiêu  nghiên cứu
Quan sát dưới kính hiển vi quang học với độ phóng đại 20 đến 200 lần. Nhận xét định tính về biểu mô tinh, tuyến kẽ và định lượng theo 2 chỉ số: (a) đường kính trung bình của ống sinh tinh của mỗi chuột và mỗi nhóm chuột; (b) Tỉ lệ các ống sinh tinh hoàn thành quá trình sinh tinh bào và tỷ lệ các ống sinh tinh hoàn thành quá trình tạo tinh trùng. Định lượng bằng trác vi thị kính và phần mềm định l−ợng KS.400 của hãng Carl Zeiss Cộng Hoà Liên bang Đức.
Kỹ thuật mô học và nhận định kết quả được thực hiện tại bộ môn Mô-Phôi học Trường Đại học Y Hà Nội (tháng 8 năm 2002).
 

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment