ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÔ HẤP, TUẦN HOÀN VÀ MỘT SỐ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN TRONG GÂY MÊ BẰNG SEVOFLURAN KẾT HỢP GÂY TÊ KHOANG CÙNG DỰA VÀO MAC VÀ BIS Ở TRẺ EM
ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÔ HẤP, TUẦN HOÀN VÀ MỘT SỐ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN TRONG GÂY MÊ BẰNG SEVOFLURAN KẾT HỢP GÂY TÊ KHOANG CÙNG DỰA VÀO MAC VÀ BIS Ở TRẺ EM
Trần Thị Nương1, Nguyễn Quốc Kính1, Lưu Quang Thuỳ1, Đào Thị Kim Dung1, Nguyễn Thị Vân Anh1, Ngô Mạnh Dinh1
1 Trung tâm Gây mê Hồi sức Ngoại Khoa, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá ảnh hưởng đến hô hấp, tuần hoàn và một số tác dụng không mong muốn trong gây mê bằng sevofluran kết hợp gây tê khoang cùng dựa vào MAC và BIS ở trẻ em. Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả trên 86 bệnh nhân. Kết quả: SpO2 duy trì trong giới hạn bình thường, thời điểm T1 (mất phản xạ mi mắt) EtCO2 thấp nhất là 30,08 ± 9,48. Sau khi rạch da (T6) nhịp tim tăng cao nhất là 126,56 ± 18,24 và có ý nghĩa thống kê với p < 0.01. Có 5,8% bệnh nhân có biểu hiện ho lúc khởi mê. Bên cạnh đó, thời điểm thoát mê chủ yếu là ứ đọng đờm dãi chiếm 11,63% bệnh nhân. Kết luận: BIS và SpO2, EtCO2, nhịp thở ở mức bình thường khi tự thở qua mask thanh quản. HATB, tần số tim duy trì ở mức bình thường trong quá trình gây mê. Sử dụng chỉ số BIS có ứng dụng thực tế để điều chỉnh độ mê ở trẻ em tạo điều kiện cho cuộc mổ diễn ra thuận lợi và an toàn.
Gây mê quásâu cóthểgây ra các tai biến hoặc quánông làm bệnh nhân tỉnh làm ảnh hưởng đếncuộc mổcũng như các di chứng vềtâm thần sau này [1]. Tác dụng gây mê của các thuốc mê đường hô hấp được định nghĩa bằng MAC (minimal alveolar concentration) hay còn gọi là nồng độ phế nang tối thiểu, đó là nồng độ phế nang tối thiểu của một thuốc mê dưới dạng khí hoặc hơi đo ở áp lực khí quyển thông thường làm ức chế phản ứng vận động ở 50% các bệnh nhân khi bị một kích thích đau như rạch da. MAC được chứng minh cân bằng với nồng độ thuốc trong não [2]. Trên thếgiới đánh giáđộmê dựa vào hoạt động điện ởvỏnão như chỉsốlưỡng phổBIS (bispectral index) đãđược áp dụng rộng rãi. BIS làmột phương tiện đánh giáđộmê dựa trên nguyên lýđo điện thếức chếvàkích thích sau synap của vỏnão được truyền đến vùng trán vàmặt, dùng điện cực đểghi lại các sóng điện não vàđược sốhóa thành các con sốtừ0 –100. Trong gây mê dựa vào BIS cóthểphát hiện sớm tình trạng gây mê quásâu hoặc quánông đểđiều chỉnh thuốc gây mê kịp thời [3].Gây mê cho trẻem cónhiều điểm đặc thùhơn so với gây mê ởngười lớn. Trong đó, việc tránh những di chứng vềtâm thần khi gây mê quánông cũng như những tai biến khi gây mê quásâu ởtrẻem làđiều rất cần thiết. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm đánh giá ảnh hưởng đến hô hấp, tuần hoàn và một số tác dụng không mong muốn trong gây mê bằng sevofluran kết hợp gây tê khoang cùng dựa vào MAC và BIS ở trẻ em
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Chỉ số BIS, gây mê bằng sevofluran, gây tê khoang cùng
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thụ. Triệu chứng gây mê và đánh giá độ mê. Bài giảng gây mê hồi sức, Nhà xuất bản y học, Hà Nội. 2014:150-71.
2. Công Quyết Thắng. Thuốc mê đường hô hấp. Bài giảng gây mê hồi sức, Nhà xuất bản y học, Hà Nội. 2014:17-24.
3. Hoàng Văn Bách. Nghiên cứu điều chỉnh độ mê theo điện não số hóa bằng nồng độ đích tại não hoặc nồng độ phế nang tối thiểu của thuốc mê. Luận văn tiến sỹ y học, Viện nghiên cứu khoa học y dược lâm sàng 108. 2012.
4. Cấn Văn Sơn. So sánh tác dụng khởi mê giữa sevoflurane và halothane ở trẻ em dưới 8 tuổi. Luận văn thạc sỹ, Đại học y Hà Nội. 2003.
Nguồn: https://luanvanyhoc.com