Áp dụng phương pháp michelet – champy trong điều trị phẫu thuật gãy góc xương hàm dưới
Mô tả đặc điểm lâm sàng, X quang các bệnh nhân gãy góc xương hàm dưới và đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật theo phương pháp Michelet – Champy. Vật liệu và phương pháp: 42 bệnh nhân với 43 đường gãy góc hàm được điều trị theo phương pháp Michelet – Champy tại Khoa Phẫu thuật Hàm mặt – Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương và bệnh viện Việt Nam – Cu Ba Hà Nội, từ 03/2009 đến 03/2010. Đánh giá kết quả điều trị khi ra viện và 6 tháng sau phẫu thuật dựa vào tỉ lệ điều trị thành công và 7 tiêu chuẩn đánh giá sau mổ của Rudolf Seemann (năm 2010). Két quả: chấn thương chủ yếu nam giới (85,7%), tuổi 19 – 39 (81,0%). Gãy góc hàm thường nằm cùng phía với vị trí của lực tác động (78,6%), hay phối hợp với các đường gãy khác của xương hàm dưới (61,9%) trong đó chủ yếu vùng cằm (76,9%) (khớp cằm và cận giữa cằm); đa số gãy góc hàm không thuận lợi (97,7%) và di lệch (65,1%). Triệu chứng lâm sàng thường gặp gồm sưng đau, há miệng hạn chế, sai khớp cắn và ấn đau chói. Phim toàn cảnh và mặt thẳng thường được sử dụng và có giá trị lớn trong chẩn đoán. Tỉ lệ điều trị thành công của phương pháp Michelet – Champy là 100%; 4 bệnh nhân (9,5%) có biến chứng sau mổ: 2 nhiễm trùng (4,8%), 1 rối loạn liền thương (2,4%) và 1 sai khớp cắn (2,4%). Két luận: phương pháp Michelet – Champy trong điều trị phẫu thuật gãy góc xương hàm dưới đơn giản, dễ sử dụng, có tỉ lệ thành công cao và ít biến chứng.
Gãy góc hàm rất thường gặp (23 – 42%) và có tỷ lệ biến chứng cao nhất trong các đường gãy của xương hàm dưới (có thể đến 32%) [4]. Trên thế giới, hiện nay điều trị tốt nhất cho gãy góc hàm vẫn đang còn tranh luận về việc xác định phương pháp điều trị, tuy nhiên theo nhiều nghiên cứu cho thấy đa số các phẫu thuật viên áp dụng phương pháp Michelet – Champy trong kết hợp xương gãy góc hàm; Kay-Uwe Feller và cộng sự (2003) nghiên cứu thấy có đến 85,4 % (n = 205) kết hợp xương theo phương pháp Michelet – Champy; Aleysson O. Paza và cộng sự (2008): tỉ lệ này là 49,2% (n = 115) [1]. Judith Fletcher đưa ra những ưu điểm của phương pháp Michelet – Champy kỹ thuật đơn giản, sử dụng đường rạch nhỏ trong miệng (tránh được sẹo ngoài da), bóc tách mô mềm ít, giảm nguy cơ tổn thương thần kinh và có lợi về mặt kinh tế [6]. Ở nước ta, vài năm gần đây phương pháp Michelet – Champy đã được áp dụng tại các bệnh viện lớn nhưng đến nay vẫn chưa thấy tác giả nào đánh giá hiệu quả của phương pháp này. Để góp phần nâng cao chất lượng điều trị phẫu thuật cho những bệnh nhân gãy góc hàm, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, X quang các bệnh nhân gãy góc xương hàm dưới.
2. Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật theo phương pháp Michelet – Champy.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng nghiên cứu
* Gồm 42 bệnh nhân chấn thương hàm mặt có gãy góc xương hàm dưới được khám và điều trị phẫu thuật tại Khoa phẫu thuật hàm mặt, Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương và bệnh viện Việt Nam – Cu Ba, Hà Nội từ tháng 03/2009 đến tháng 03/2010.
* Tiêu chuẩn chọn: Bệnh nhân có gãy góc hàm đơn thuần (gãy 1 đường, ở 1 hoặc 2 bên góc hàm) hoặc gãy góc hàm có phối hợp với đường gãy ở vị trí khác của xương hàm dưới, được điều trị phẫu thuật trong vòng 7 ngày sau chấn thương [9]. Đường gãy góc hàm được điều trị phẫu thuật kết hợp xương theo phương pháp Michelet – Champy. Nếu có đường gãy phối hợp khác của xương hàm dưới thì đường gãy đó phải được kết hợp xương vững chắc. Bệnh nhân được theo dõi khi điều trị và khám đánh giá sau khi ra viện.
* Tiêu chuẩn loại trừ [5]: gãy góc hàm kiểu gãy vụn hoặc mất đoạn; gãy góc hàm bệnh lý; gãy góc hàm có phối hợp với gãy xương hàm trên (ảnh hưởng đến khớp cắn); gãy góc hàm có đa chấn thương, hoặc kèm chấn thương sọ não ảnh hưởng đến điều trị.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích