ÁP DỤNG THANG ĐIỀM SCORTEN TRONG TIÊN LƯỢNG BỆNH NHÂN HỘI CHỨNG STVEVENS – JOHNSON, LYELL DO DỊ ỨNG THUỐC

ÁP DỤNG THANG ĐIỀM SCORTEN TRONG TIÊN LƯỢNG BỆNH NHÂN HỘI CHỨNG STVEVENS – JOHNSON, LYELL DO DỊ ỨNG THUỐC

ÁP DỤNG THANG ĐIỀM SCORTEN TRONG TIÊN LƯỢNG BỆNH NHÂN HỘI CHỨNG STVEVENS – JOHNSON, LYELL DO DỊ ỨNG THUỐC
Phùng Thị Phương Tú, Nguyễn Văn Đoàn
Trường đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng; đánh giá thang điểm SCORTEN trong tiên lượng bệnh nhân hội chứng Stevens – Johnson (SJS), Toxic Epidermal Necrolysis (TEN – Lyell) do dịứng thuốc. Kết quả cho thấy: SJS: 42,5%, SJS/TEN: 27,5%, TEN: 30%, nam/nữ: 52,5/47,5%, tuổi trung bình: 49,27 ± 20,4 tuổi, ngày nằm viện trung bình: 16,28 ± 6,8 ngày, ngày xuất hiện triệu chứng sau dùng thuốc: 20,2 ± 20,89 ngày; 65% có tăng men gan, men gan tăng 2-3 lần. SCORTEN trung bình: 1,53 ± 1,01. Tỷ lệ tử vong ước tính/thực tế theo SCORTEN: 11,75/7,5%. Kết luận: SCORTEN càng cao nguy cơ tử vong càng lớn.
Dị ứng thuốc ngày càng gia tăng và gây nhiều hậu quà nghiêm trọng, nhiều trường hợp gây tử vong. SJS và TEN là những tổn
thương da nặng do thuốc, rất hiếm gặp. Cà hai có cơ chế bệnh sinh giống nhau chỉ khác nhau về diện tích da bị tổn thương, SJS có diện tích da tổn thương < 10%, TEN > 30%, SJS/TEN: 10 – 30%. Tỷ lệ tử vong do SJS khoảng 10%, TEN: 40%, SJS/TEN: 20 – 25% [1; 2]. Thang điểm SCORTEN được áp dụng để dự đoán tỷ lệ tử vong một cách chính xác
ở các bệnh nhân này. SCORTEN được áp
dụng rộng rãi ở các nước Châu Âu từ những năm 2000, và đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới như của Sylvie Bas- tuji – Garin (2000), Sarah Guégan (2006) về vấn đề này [3; 4]. ở Việt Nam hiện chưa có nghiên cứu nào vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài nhằm mục tiêu sau:

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment