ÁP DỤNG THEO DÕI NỒNG ĐỘ THUỒC VANCOMYCIN TRONG ĐIỀU TRỊ LÂM SÀNG

ÁP DỤNG THEO DÕI NỒNG ĐỘ THUỒC VANCOMYCIN TRONG ĐIỀU TRỊ LÂM SÀNG

 ÁP DỤNG THEO DÕI NỒNG ĐỘ THUỒC VANCOMYCIN TRONG ĐIỀU TRỊ LÂM SÀNG

Lê Ngọc Hùng*, LêThị Diễm Thủy , Trần Quang Vinh 
TÓM TẮT
Cơ sở: Mục tiêu của nghiên cứu là khảo sát tỉ lệ bệnh nhân đạt được liều trũng vancomycin trong phạm vi, 5-15 pg/ml, nhờ vào áp dụng theo dõi nông độ thuốc trong điều trị lâm sàng.
Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp, mở, không nhóm chứng, áp dụng quy trình theo dõi nông độ thuốc vancomycin trong điều trị trên 36 bệnh nhân (3 viêm phôi, 33 viêm màng não) tại khoa Hồi sức ngoại thần kinh, bệnh viện Chợ rẫy. Liều khởi đầu vancomycin được cho dựa theo độ thanh thải creatinin (ClCr), 1000 mg/12 giờ/ngày nếu ClCr > 60 ml/phút và 500 mg/8 giờ/ngày nếu ClCr < 60 ml/phút. Nông độ trũng và đỉnh của vancomycin được đo vào 30 phút trước và sau liều thứ 4th (giai đoạn ôn định dược động học). Liều điều trị được tăng hoặc giảm dựa chủ yếu theo kết quả của nông độ trũng. Bệnh nhân được chỉnh liều sẽ được khảo sát lại nông độ trũng và đỉnh lần 2 ở giai đoạn ôn định mới của dược động học.
Kết quả: Có 6 bệnh nhân được chỉ định dùng vancomycin liều thấp, 500 mg/8 giờ/ngày, do ClCr< 60 ml/phút. Trong đó 4 bệnh nhân đạt nông độ trũng trong phạm vi 5-15 pg/mL, 02 bệnh nhân được chỉnh liều lần 2, và đạt nông độ trũng 4,73 và 18,2 pg/ml. Ba mươi (30) bệnh nhân được chỉ định dùng liều chuẩn khởi đầu 1000 mg/12 giờ/24 giờ, 9 bệnh nhân sau đó được chỉnh liều vancomycin (30%) và 8/9 đạt nông độ trũng trong phạm vi 5-15 pg/ml, 01 bệnh nhân có nông độ trũng là 16,3 pg/ml. Tông cộng có 34/36 (94,4%) bệnh nhân đạt hợp lý nông độ trũng vancomycin. Không ghi nhận tác dụng độc trên thận trên tất cả bệnh nhân. Tỉ lệ điều trị thành công là 6/11 (54,5%), 19/21 (90,1%) và 2/4 (50%) theo thứ tự cho vancomycin đơn trị liệu, phôi hợp thêm với 1 kháng sinh và 2 kháng sinh khác.
Kết luận: Theo dõi nông độ vancomycin dễ áp dụng và có hiệu quả, cần được áp dụng để đảm bảo đạt được nông độ thuôc cần thiết cho điều trị, ngăn ngừa sự phát triển kháng thuôc của S. aureus
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vancomycin là kháng sinh họ glycopeptide đã được sử dụng trên lâm sàng gần 50 năm cho điều trị các dòng Staphylococcus aureus tiết ra penicillinase*18). Vancomycin là một trong các kháng sinh được sử dụng nhiều ở Mỹ trong điều trị các trường hợp nhiễm khuẩn gram- dương nguy hiểm bao gồm S. aureus kháng methicillin (MRSA)(16). Sử dụng vancomycin lúc đầu tiên thường có một số’ tác dụng ngoại ý, như độc tính liên quan đến tốc độ truyền (hội chứng người đỏ – red man syndrome), độc tính trên thận, và có thể độc tính trên tai. Dựa theo các nghiên cứu sau đó, có vẽ tính không tinh khiết cùa các chế’ phẩm ban đầu của vancomycin đã gây các tác dụng ngoại ý này(1617). Việc sử dụng vancomycin đã bị giảm xuống khi có sự xuất hiện các dẫn xuất penicillins bán tổng hợp như methicillin, oxacillin, nafcillin do các dẫn chất này ít độc tính hơn(1617). Tuy nhiên sự gia tăng mạnh các nhiễm khuẫn MRSA vào thập niên 1980 đã lại mang vancomycin trở lại là kháng sinh cơ bản trong điều trị loại vi khuẩn này.
Dựa trên nhiều nghiên cứu dược động học trên các quần thể bệnh nhân khác nhau và nhiều dạng thuốc thương mại có sẵn trên thị trường đã giúp xây dựng nồng độ đích của vancomycin một cách khá chính xác với đặc điểm một cửa sổ điều trị hẹp. Khoãng cửa sổ điều trị hẹp vancomycin đầu tiên được đưa ra bởi Geraci năm 1977, với nồng độ trũng 5-10pg/ml và nồng độ đỉnh 30-40 pg/ml(7). Gần đây, theo khuyến cáo của Hội Lồng Ngực Mỹ, và Hội Bệnh Nhiễm Khuẫn Mỹ nồng độ trũng vancomycin càng cao và hẹp hơn, 15-20 pg/mL, trên bệnh nhân người lớn bị viêm phổi mắc phải trong bệnh viện, viêm phổi do thở máy, và viêm phổi do chăm sóc y tế(1). Tổng quát, nồng độ trũng vancomycin được khuyến cáo duy trì trong 5-15pg/ml, và ở phạm vi này ít khi gặp trường hợp nồng độ đỉnh tương ứng > 40pg/mL(15’8’6’9).
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment