BÁO CÁO TÓM TẮT TỔNG ĐIỀU TRA DINH DƯỠNG NĂM 2009-2010
BÁO CÁO TÓM TẮT TỔNG ĐIỀU TRA DINH DƯỠNG NĂM 2009-2010
Đánh giá tình hình dinh dưỡng, tiêu thụ lương thực-thực phẩm và theo dõi các yếu tố liên quan được hầu hết các quốc gia trên thế giới hết sức quan tâm. Những tiến bộ hay những vấn đề tồn tại về tình trạng sức khỏe-dinh dưỡng thông qua các chỉ số dinh dưỡng và sức khỏe được Tổ chức Y tế thế giới, Unicef, tổ chức Lương thựcthực phẩm thế giới (FAO) khuyến nghị cần theo dõi chặt chẽ với mục đích kịp thời đề ra các can thiệp sớm với chiên lược dự phòng hiệu quả. Ở khu vực châu Á, vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức đe dọa tình trạng sức khỏe dinh dưỡng của người dân ở một số quốc gia. Trong khi đó, nhiều nước – trong đó có Việt Nam – đã đạt được những thành công đáng kể trong tiến trình giảm đói nghèo và hạ thấp tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em.
Trước khi bước vào thập kỷ tới, việc tiến hành tiếp tục Tổng Điều tra Dinh Dưỡng theo chu kỳ 10 năm là cần thiết, mục đích nhằm trả lời các câu hỏi về tình hình dinh dưỡng của người Việt Nam ngày nay và phân tích các mối liên quan, xác định rõ các yếu tố nguy cơ… để làm cơ sở khoa học xây dựng Chiến lược hành động về Dinh Dưỡng cho giai đoạn mới 2011-2020. Mục tiêu của tổng điều tra năm 2009-2010 nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng, tiêu thụ lương thực-thực phẩm hộ gia đình và các vấn đề liên quan đối với người Việt Nam, đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi. Cuộc điều tra này đã được triển khai tại 512 xã phường chọn ngẫu nhiên của 432 huyện quận trong 64 tỉnh thành (theo địa giới hành chính tỉnh và thành phố Việt Nam trước năm 2008). Phương pháp thu thập thông tin chủ yếu bao gồm điều tra phỏng vấn đối tượng, cân đo nhân trắc, hỏi ghi khẩu phần và thu thập thông tin từ các cơ sở y tế tuyến xã, huyện và tỉnh. Thông tin được các đội điều tra của các tỉnh tiến hành thu thập, kiểm tra và chuyển về Viện Dinh Dưỡng để nhập và làm sạch. Số liệu đã phân tích theo phương pháp điều tra mẫu chùm của phần mềm thống kê Stata 11 với sự hỗ trợ của chuyên gia quốc tế. Các chỉ số nhân trắc của trẻ được phân tích dựa trên quần thể tham khảo chuẩn của WHO 2007
1. Tổ chức giám sát chặt chẽ nhằm đánh giá nghiêm túc hiệu quả của dự án phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em ở các cấp. Đẩy mạnh các hoạt động phòng chống SDD thấp còi trong 2 năm đầu đời cũng như thời kỳ mang thai.Cần hướng các chương trình can phòng chống thấp còi đến người nghèo và những bà mẹ có những chỉ số kém của tình trạng dinh dưỡng bà mẹ (tầm vóc thấp và BMI thấp), trình độ học vấn bà mẹ thấp. Định hướng về địa lý cho chương trình tới những vùng sinh thái có tỷ lệ thấp còi cao nhất là vùng núi và trung du phía bắc, Bắc trung bộ và ven biển miền trung, Tây Nguyên cũng rất quan trọng. Chương trình phòng chống thấp còi cần đảm bảo truyền thông đưa được các thông điệp hiệu quả đến những phụ nữ có trình độ văn hóa thấp. Tỷ lệ thấp còi cao ở trẻ em dưới 6 tháng tuổi (khoảng 11%), cho thấy cần thiết phải có chương trình can thiệp dự phòng bắt đầu từ thời kỳ mang thai. Cần thiết có chương trình tư vấn cho cha mẹ nhằm cải thiện sự đa dạng bữa ăn bổ sung cho trẻ khi trẻ được 6 tháng tuổi trở đi.
2. Đẩy mạnh hoạt động phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng, đặc biệt là thiếu sắt và vitamin A thông qua nhiều giải pháp khác nhau – trong đó tăng cường vi chất vào thực phẩm nhằm đa dạng hóa thực phẩm phải được coi là một giải pháp then chốt bổ sung vi chất cho bữa ăn hàng ngày của toàn dân cũng như trẻ em.
3. Cần chú ý theo dõi đến hiện tượng tăng trưởng chiều cao đang diễn ra mạnh hiện nay. Hiện tượng “tăng trưởng bù” (catch-up) xảy ra sau nhiều năm chiến tranh và khủng khoảng kinh tế ở trên thế giới đang xảy ra tại nước ta và cần theo dõi. Đồng thời đẩy mạnh tư vấn tăng trưởng cho phụ nữ tiền thai và phụ nữ mang thai và nuôi con nhỏ dưới 2 tuổi về vai trò sữa mẹ và vi chất dinh dưỡng trong khẩu phần.
4. Cơ cấu sinh năng lượng khẩu phần từ nguồn từ protein, chất béo và glucid (P: L: G ) hiện nay là 15,9: 17,8: 66,3. Đây là mức cơ cấu sinh năng lượng được coi là tương đối lý tưởng. Điều này cho thấy mức tiêu thụ LTTP của nhân dân ta được cải thiện theo chiều hướng tốt lên rõ rệt nhưng cũng cần có những hướng dẫn dinh dưỡng hợp lý kịp thời để tránh những biến đổi nhanh quá mức không có lợi cho sức khỏe. Mặt khác cần lưu ý đến sự khác biệt về mức tiêu thụ LT-TP ở nhóm đối lượng khác nhau và các vùng khác nhau để định hướng các loại hình can thiệp theo vùng miền và đối tượng khác nhau cho phù hợp.
5. Cần tổ chức hệ thống giám sát điểm ở cấp địa phương để rút kinh nghiệm cho việc triển khai đồng bộ trên phạm vi rộng. Đồng thời nâng cao năng lực của các địa phương trong việc quản lý thực hiện cũng như đánh giá dự án.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất