BẤT CÔNG BẰNG TRONG TIẾP CẬN CÁC DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN TẠI VIỆT NAM
Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc tăng cường khả năng tiếp cận sức khoẻ sinh sản. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tỷ lệ tử vong mẹ vẫn còn cao và vẫn còn có sự khác biệt lớn về tỷ lệ tử vong mẹ giữa nhóm kinh tế, văn hóa , xã hội, đặc biệt là sự khác biệt giữa các vùng miền. Nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng bất công bằng giữa các nhóm kinh tế xã hội về tỷ lệ các trường hợp đẻ tại cơ sở y tế. Kết quả cho thấy 93,6% phụ nữ cho biết họ đẻ con tại các cơ sở y tế. Tỷ lệ phụ nữ đẻ con tại cơ sở y tế thấp hơn ở nhóm phụ nữ: 1) trong độ tuổi 15 – 19 và 44 – 49; 2) có trình độ học vấn thấp; 3) là người dân tộc thiểu số; 4) có mức sống thấp hơn; 5) sống ở khu vực nông thôn. Kết luận: Vẫn có sự bất công bằng giữa các nhóm kinh tế – xã hội về việc tiếp cận với dịch vụ sức khỏe sinh sản đặc biệt là sự khác biệt giữa các nhóm học vấn, các nhóm dân tộc, các nhóm kinh tế và nơi cư trú.
Mục tiêu Thiên niên kỷ bao gồm tám mục tiêu được 189 quốc gia thành viên Liên hợp quốc nhất trí phấn đấu đạt được vào năm 2015. Mục tiêu thiên niên kỷ 5 đề cập đến việc cải thiện sức khỏe bà mẹ qua đó giảm ba phần tư tỷ lệ tử vong ở bà mẹ trong giai đoạn 1990 – 2015 và đạt được phổ cập chăm sóc sức khỏe sinh sản vào năm 2015 [1]. Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc tăng cường khả năng tiếp cận sức khoẻ sinh sản bao gồm chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ sơ sinh, kế hoạch hoá gia đình; tăng cường việc sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại; xây dựng các chương trình, chính sách và luật pháp về sức khoẻ sinh sản và quyền sinh sản, cũng như các dịch vụ có chất lượng tới người nghèo và các nhóm dân số dễ bị tổn thương. Tuy nhiên, ở Việt nam, tỷ lệ tử vong mẹ (MMR) vẫn còn cao (63 ca tử vong trên 100.000 trường hợp đẻ sống). Vẫn còn có sự khác biệt lớn về tỷ lệ tử vong mẹ giữa nhóm kinh tế, văn hóa , xã hội, đặc biệt là sự khác biệt giữa các vùng miền [2].
Ba phần tư số ca tử vong ở bà mẹ xảy ra trong giai đoạn đẻ con và giai đoạn ngay sau sinh [1].viên y tế có năng lực, có kỹ năng hộ sinh, và phải luôn sẵn có phương tiện vận chuyển đến các cơ sở chăm sóc sức khỏe sinh sản tuyến trên trong trường hợp khẩn cấp. Mục tiêu của nghiên cứu này là mô tả thực trạng bất công bằng giữa các nhóm kinh tế xã hội về tỷ lệ các trường hợp đẻ tại cơ sở y tế.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất