BỆNH ĐỘNG MẠCH CHỦ (ĐMC) Ở NGƯỜI TRẺ

BỆNH ĐỘNG MẠCH CHỦ (ĐMC) Ở NGƯỜI TRẺ

 BỆNH ĐỘNG MẠCH CHỦ (ĐMC) Ở NGƯỜI TRẺ

Văn Tần* và CS
TÓM LƯỢC
Đặt vấn đề: Từ thập kỷ 70 đến nay, trong lúc điều trị bệnh động mạch (ĐM) tại BV Bình Dân, thỉnh thoảng, chúng tôi gặp nhữ ng TH bệnh ĐMC ở người trẻ, thậm chí rất trẻ. Đa số là bệnh của đoạn ĐMC ngựcbụng, kết hợp với bệnh của các ĐM khác, đến điều trị với những biến chứng. Sau khi tham khảo y văn, chúng tôi thấy đây là một nhóm bệnh rất đa dạng mà đa số không do xơ vữa thành mạch hay xơ vửa thành mạch không phải là nguyên nhân chính. Điều trị nhóm bệnh nầy khá phức tạp và kết quả lâu dài rất dè dặt.
Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi hồi cứu các bệnh nhân dưới 50 tuổi bị bệnh ĐMC đã điều trị tại BV Bình Dân từ 1991 đến 2002 để tìm xem nhữ ng đặc điểm, những chỉ định điều trị và kết quả, hầu rút ra một số kinh nghiệm.
Kết quả nghiên cứu: – Về Đặc điểm: Có 72 BN bị bệnh ĐMC ở người dưới 50 tuổi trong số 1152 người bị bệnh ĐMC đế n điều trị trong thời gian 12 năm, chiếm tỉ lệ 6.25%. Tỉ lệ nam/nữ là 37/35 với tuổi TB là 34. Có 28 phình, 29 hẹp, 15 vừa phình vừa hẹp. 52/72 BN có tổn thương ĐM trên 2 chỗ. Đa số nhập viện với BC nặng như vỡ túi phình, suy tuần hoàn gây thiếu máu các bộ phận phụ thuộc như cao HA, suy thận, rối loạn tiêu hóa, thiểu dưỡng chi dưới. Đa số TH phình cũ ng như hẹ p nằ m trê n ĐM thậ n (20/28 phình, 21/29 hẹ p, 11/15 vừ a phình vừa hẹp). Xét về đại thể và lâm sàng thì có thể xếp bệnh nguyên như sau: Takayasu: 16, FMD: 8, Marfan type B: 3, nhiểm trùng: 10, viêm: 10, viêm và xơ vữa: 24, phát triển bất toàn: 3. Có 8 TH, các mạch 
máu tạng bất thường như ĐM màng treo dưới lớn ngoăn ngoèo, ĐM màng treo trên và ĐM thân tạng nhỏ. – Về chỉ định điều trị, phương pháp phẫu thuật và kết quả: Có 55 BN phải mổ với 62 tổn thương để tái tạo dòng chảy của ĐM mà hầu hết bệnh ĐM đã gây BC hay triệu chứng, 17 TH đượ c điều trị bảo tồn vì hoặc nguy cơ PT cao và chưa phải là CC hoặc vì dòng chảy còn lưu thông khá. BC PT là 12, 7% và TV PT là 3.6%. Trong theo dõi lâu dài, BC hay tái phát phải mổ lại là 16.9% với TV trong toàn nhóm là 9.4%. Riêng nhóm theo dõi thì có 2 TH TV trong vòng 6 tháng mà 1 là do vỡ túi phình không kịp can thiệp và 1 là do suy thậ n gây phù phổicấp.
Bàn luận và kết luận: Qua phần đặc điểm, chúng ta thấy bệnh ĐMC ở người trẻ là một nhóm bệnh rất đa dạng, xác định bệnh nguyên khó, nhất là khi không có xét nghiệm vi thể. Các tổn thương ĐMC có thể qui về 3 nhóm: nhóm phình, nhóm hẹp và nhóm cả phình lẫn hẹp. Phình thì ít lan ra các mạch nhánh hay lan lên cao nhưng hẹp thì có thể kéo theo hẹp các mạch nhánh và dẫn đến bệnh đa ĐM và các hậu quả. Vì tuổi trẻ và thường có nhiều bệnh kết hợp cho nên định bệnh sớ m không dễ, đa số khi phát hiện thì đã có BC. Nhờ các triệu chứng lâm sàng mà đặc biệt là cao HA và thiểu dưỡng các tạng và chi dưới với những hậu quả của nó, nếu khám kỷ về chuyên khoa, chúng ta có thể phát hiện bệnh trước khi bị BC nặng. 
Trong điều trị, khi bệnh được phát hiện sớm, điều trị bảo tồn là cơ bản. Khi có chỉ định PT, tốt nhất là nên thay thế hay bắc cầu qua đoạn ĐM bị bệnh cùng kết hợp với điều trị nội khoa liên tục để có thể làm cho bệnh chậm diễn tiến. Nong rộng lòng ĐM và đặt stent, được chỉ định để giữ cho chỗ hẹp giảm tái phát và đặt ống ghép từ trong lò ng ĐM qua da cho nhữ ng TH phình là phương phá p điề u trị mới, ít xâm lấn đã được thực hiện ở nhiều trung tâm mạch máu trên thế giới nhưng kết quả lâu dài còn đang được theo dõi.
Nhờ tuổi trẻ, BN có thể vượt qua được các BC trong viện nhưng về lâu dài, BC và tái phát thường xẩy ra vì bệnh diễn tiến phức tạp, có thể gây TV bất cứ lúc nào nên cần phải theo dõi kỷ để kịp thời cứu chữa.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment