Bla NDM – 1 và các yếu tố độc lực trên các chủng Vibrio Cholerae NON 01, NON 139 tại khu vực phía nam Việt Nam
Bla NDM – 1 và các yếu tố độc lực trên các chủng Vibrio Cholerae NON 01, NON 139 tại khu vực phía nam Việt Nam
Tác giả: Diệp Thế Tài, Nguyễn Thị Ngọc Nhi, Nguyễn Ngọc Cát Thi, Nguyễn Hoàng Vũ,Nguyễn Quang Trường, Ân Khắc Huy, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Ngọc Anh Thư,Nguyễn Thị Phương Lan
Tóm tắt:
Vibrio cholera non 01 và non 0139 (VC NAG) là tác nhân gây tiêu chảy có khả năng gây dịch địa phương và gây nhiễm trùng máu. Tìm hiểu sự tồn tại và khả năng lưu hành các yếu tố độc lực, gene kháng kháng sinh của các chủng VC NAG thật sự cần thiết. VC NAG (94 chủng phân lập từ nguồn nước, 6 chủng phân lập từ bệnh nhân) tại khu vực phía Nam từ năm 2010 – 2013 được tiến hành phân tích. PCR được sử dụng trong xác định kiểu gen các yếu tố độc lực liên quan: Cholera toxin (ctxA), NAG-specific heat-stable toxin (st), zonula occludens toxin (zot), và filamentous phage fs1, fs2. Phương pháp đĩa đôi kết hợp gồm các kháng sinh cefotaxime, ceftazidime and amoxicillin + clavulanate được dùng xác định các chủng vi khuẩn tiết ESBL, xác định các chủng tiết blaNDM kiểu hình bằng kỹ thuật hodge test cải tiến, và PCR được sử dụng để phát hiện các chủng mang gene mã hoá blaNDM và nhóm plasmid mang gene blaNDM. Kỹ thuật giải trình tự được sử dụng để khẳng định kết quả blaNDM và nhóm plasmid mang gene blaNDM. Trong số 100 chủng nghiên cứu, ctxA chiếm 6%, trong đó, 5% ctxA phát hiện trên chủng phân lập trong môi trường và 1% trong chủng phân lập trên người. Độc tố NAG – st, cũng được phát hiện với tỉ lệ 17%, trong đó 88,2% các chủng phân lập từ môi trường mang gene này, và 11,8% phát hiện được trên người; fs1 và fs2 trên các chủng VC NAG chiếm tỉ lệ 15, 8% và không phát hiện gene zot trong các chủng nghiên cứu. Bên cạnh đó, 4% các chủng phân lập từ môi trường tiết ESBL, và 3% các chủng tiết blaNDM, và plasmid mang blaNDM thuộc nhóm IncA/C. VC NAG thật sự là một chỉ số cần giám sát trong tình hình dịch bệnh hiện nay khi mà các yếu tố độc lực như ctxA, NAG – st đã được ghi nhận tồn tại với tỉ lệ cao. Hơn nữa, lần đầu tiên các chủng VC NAG tiết ESBL và blaNDM được phát hiện tại Việt Nam, đây được xem như một dấu hiệu cảnh báo về tính nguy hiểm của các chủng VC NAG trong tình hình kháng thuốc gia tăng. Do đó, việc tiếp tục giám sát VC – NAG cần phải được quan tâm đúng mức hơn