BƯỚC ĐẦU ÁP DỤNG KỸ THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC NGÃ HÔNG LƯNG TRONG MỔ CẮT CHÓP NANG THẬN
BƯỚC ĐẦU ÁP DỤNG KỸ THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC NGÃ HÔNG LƯNG TRONG MỔ CẮT CHÓP NANG THẬN VÀ SẠN NIỆU QUẢN ĐOẠN TRÊN
Nguyễn Văn Hiệp1, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng2, Phạm Phú Phát3, Nguyễn Văn Ân 2, Nguyễn Ngọc Tiến2, Đào Quang Oánh4, Nguyễn Tế Kha 2, Nguyễn Hoàng Đức2
TÓM LƯỢC
Mục tiêu: phẫu thuật nội soi ít xâm lấn là khuynh hướng phát triển chung của phẫu thuật, ngành niệu khoa cũng không là ngoại lệ. Tuy nhiên, niệu khoa có điểm đặc thù là phẫu thuật đại đa số ở vùng sau phú c mạc nên phát triển phẫu thuật nội soi vùng sau phúc mạclà hướng đi thích hợp và nhiều triển vọng. Tại KhoaBộ môn Niệu bệnh viện Bình Dân đã pháttriển phẫu thuật nội soi ổ bụng từ khoảng đầu năm 2001 và nội soi sau phú c mạ c vù ng hô ng lưng từ thá ng 8 / 2002. Bà i viế t nà y nhằ m tổ ng kế t cá c trườ ng hợ p nộ i soi sau phú c mạc vùng hông lưng mà bước đầu chúng tôi đã áp dụng trong điều trị ngoại khoa nang thận và sạn niệu quản đoạ n trê n.
Tư liệu và phương pháp nghiên cứu: chúng tôi có hai nhóm bệnh nhân: nhóm 17 bệnh nhân nang thận có triệu chứng và nhóm 36 bệnh nhân sạn niệu quản đoạn trên có chỉ định can thiệp. Nhóm nang thận được áp dụng kỹ thuật này từ 8/2002 và nhóm sạn niệu quản đoạ n trê n từ 3/2003, thờ i điể m tổ ng kế t là cuố i thá ng8/2003. Trên cả hai nhóm này đều áp dụng chung kỹ thuật vào vùng sau phúc mạc vùng hô ng lưng sau khi
bơm túi nước tách vùng hông lưng và bơm hơi CO2 để tạo khoảng trống làm việc, dùng 3 hoặc 4 trocar với trocar cho ống kính nội soi nằm phía trên mào chậu và trên đường nách giữa, 2 trocar làm việc trên đường ná ch sau. Đá nh giá kế t quả theo 2 nhó m riê ng biệt ngay trong thời gian nằm viện hậu phẫu.
Kết quả: trê n 17 bệ nh nhâ n nang thậ n có tuổ i trung bình 51,9, có 6 nam và 11 nữ , 7 nang bên phải và 10 nang bên trái. Kích thước nang trung bình là 66,6mm với 6 nang cực trên, 1 nang cực giữa, 9 nang cực dưới, 1 nang cạnh bể thận. Thể tích túi nước bơm trung bình là 443ml, chủ yếu dùng 3 trocar, chỉ 2 trường hợp dùng 4 trocar. Hai trường hợp tìm nang lúc mổ khó vì nang cực trên ở mặt trước và nang cực dưới rất lớn. Thời gian mổ trung bình là 99,7 phút. Thời gian có lại nhu động ruột sau mổ là 1,54 ngày; thời gian rút ống dẫn lưu là 2,9 ngày; thời gian nằm viện sau mổ: 3,92 ngày. Có 3/17 trường hợp (17,6%) phải chuyển mổ hở, đều là các nang thận cực trên và trong thời gian đầu. Biến chứng sau mổ chỉ có 1 trường hợp nhiễm trùng vết đặt trocar. Ba mươi sáu bệnh nhân sạ n niệu quản đoạn trên có tuổi trung bình 46,6, có 17 nam và 19 nữ, mổ lấy ra 21 sạn bên phải và 16 sạn bên trái với 37 sạn trên 36 bệnh nhân. Vị trí sạn: khúc nối bể thận-niệu quản: 7 ; mỏm ngang LIII: 10 ; mỏm ngang LIV
: 5 ; giữa L III-LIV: 12 ; giữa LIV-LV: 2. Kích thước sạn trung bình là 16,56 mm. Phim hệ niệu có cản quang có 3 trường hợp thận ứ nước độ I, 27 thận ứ nước độ II, 3 thận ứ nước độ III, 3 trường hợp không rõ; 20 trường hợp chức năng thận tốt, 11 chức năng trung bình và 5 chức năng thận xấu. Hai trường hợ p đầu có đặt thông niệu quản trước mổ. Thể tích túi nước bơm là 387ml; dùng 3 trocar trong 28 trường hợp, dùng 4 trocar trong 8 trường hợp. Cắt xẻ niệu quản chủ yếu bằng dao lạnh, chỉ 2 trường hợp xẻ bằng dao nóng, khâu lại niệu quản từ 1-3 mũi. Ba trường hợp có đặt lưu thông niệu quản khi mổ
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất