Bước đầu khảo sát u gan bằng kỹ thuật ghi hình siêu âm hòa âm đảo pha kèm tiêm chất tương phản
– Nhận xét về kết quả bước đầu của việc áp dụng kỹ thuật ghi hình siêu âm đảo pha kèm tiêm chất tương phản trong khảo sát một số u gan tại bệnh viện TW Huế.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
– Hổi cứu 14 trường hợp u gan đã được xác định bằng giải phẫu bệnh : 10 ung thư tế bào gan nguyên phát, 01 ung thư gan thứ phát (UTGTP), 02 u mạch máu (UM), 01 tăng sản nốt khu trú (TSN).
– Hai quy trình ghi hình được sử dụng phù hợp với chất tương phản (CTP) sử dụng, trong cả hai quy trình thì đều tuân thủ ghí hình ở các thời điểm 15 đến 40 giây sau tiêm cho thì động mạch, 50 đến 90 giây sau tiêm cho thì tĩnh mạch và thì muộn khoảng 120 đến 300 giây sau tiêm :
– Với chất tương phản là Levovist, chúng tôi sử dụng kỹ thuật ADI, MI >0.3.
– Với chất tương phản là Sonovue, chúng tôi sử dụng kỹ thuật CPS, MI <0.2.
Kết quả:
– 10 trường hợp UTTBGNP biểu hiện nhuộm CTP ở thì động mạch bởi các động mạch tân sinh và tăng hổi âm không động nhất, sau đó trở nên giảm hổi âm hoặc đổng hổi âm ở thì tm cửa và giảm hổi âm ở thì muộn.
– 01 trường hợp UTGTP biểu hiện nhuộm CTP hình viền ở thì động mạch, giảm hổi âm ở thì tm cửa và thì muộn.
– 02 trường hợp UM nhuộm CTP đậm hình nốt ở ngoại vi trong thì động mạch và tính chất nhuộm CTP này lan dần vào trung tâm ở các thì sau.
– 01 trường hợp TSN biểu hiện động mạch nuôi phân nhánh hình sao ở trung tâm và nhuộm CTP đổng nhất ở thì tm cửa và thì muộn.
Kết luận:
Kỹ thuật ghi hình hòa âm đảo pha cung cấp thông tin về đặc tính nhuộm CTP riêng biệt của các loại u gan, từ đó giúp định hướng chẩn đoán bản chất các loại u gan.
1. ĐẶT VẤN ĐỂ
– Với nét đặc thù về giải phẫu của hai nguổn cấp máu cho gan và hệ thống xoang mạch phong phú mà từ lâu các bác sĩ chẩn đoán hình ảnh dựa vào đó để khảo sát động học tưới máu của gan và các u gan qua nghiên cứu kỹ thuật cắt lớp vi tính cũng như cộng hưởng từ nhiều pha. Gần đây, với kỹ thuật ghi hình siêu âm tiên tiến và khai thác các khía cạnh đáp ứng hòa âm của chất cản âm, các nhà nghiên cứu cũng cho thấy ghi hình siêu âm cũng có khả năng cung cấp thông tin động học như hai phương tiện trên, bằng chứng là hiệp hội các hội siêu âm châu Âu trong Y học và Sinh học (EFSUMB) đã xây dựng hẳn hướng dẫn sử dụng chất tương phản cản âm trong khảo sát gan [3]. Hiện tại, trong nước chưa thấy có y văn đề cập đến ứng dụng này; vì thế nhóm nghiên cứu chúng tôi thực hiện đề tài này với mục tiêu :
– Nhận xét về kết quả bước đầu của việc áp dụng kỹ thuật ghi hình siêu âm đảo pha kèm tiêm chất tương phản trong khảo sát một số u gan tại bệnh viện TW Huế.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Nghiền cứu
Đối tượng: gồm 14 trường hợp u gan đã được xác đinh bằng giải phẫu bênh (mẫu bênh phẩm sau mổ hoặc sinh thiết dưới hướng dẫn siêu âm). Tất cả bệnh nhân được chụp cắt lớp vi tính vòng xoắn qua 3 thì ngấm thuốc cản quang .
Chất tương phản (CTP) siêu âm sử dụng:
– Levovist là chất tương phản thế hệ I, thành phần chính là những bọt không khí được bao bọc bới
lớp vỏ cấu tạo bởi galactose và axít Palmitic, đường kính các bọt này từ 2 đến 8 ụ,m. Trước khi tiêm vào tĩnh mạch nền ở cẳng tay, Levovist được chuẩn bị theo sự hướng dẫn của nhà sản xuất. Liều sử dụng là 2,5 g ở nổng độ 300mg/ml, cách thức tiêm là tiêm nhanh tổng liều (bolus) theo sau bởi 10
ml nước muối sinh lý .
– Sonovue là chất tương phản thế hê II, cấu tạo bởi các bọt khí sulfur hexaíluoride được bọc bởi lớp vỏ phospholipid và axít palmitic, đường kính các bọt này từ < 8 ụ,m, trung bình là 3 ụ,m. Trước khi tiêm vào tĩnh mạch nền ở cẳng tay, sonovue được chuẩn bị theo sự hướng dẫn của nhà sản xuất. Liều sử dụng là 2,4 ml loại nồng độ 8 ml/ml, cách thức tiêm là tiêm nhanh tổng liều (bolus) theo sau bởi 5 ml nước muối sinh lý.
Kỹ thuật ghi hình siêu âm đảo pha sau tiêm chất tương phản
– Với chất tương phản là Levovist, chúng tôi sử dụng kỹ thuật ADI, là tên thương mại của hãng Siemens, với các thông số ghi hình là MI >0.3; FR=2/s, tần số đầu dò là 2-6 MHz, quá trình ghi hình là gián đoạn, ghi hình ở các thời điểm là 15 đến 20s sau tiêm cho thì động mạch, 45 đến 60 s sau tiêm cho thì tĩnh mạch và thì muộn khoảng 4 phút sau tiêm, khoảng thời gian ghi hình là 10s .
– Với chất tương phản là Sonovue, chúng tôi sử dụng kỹ thuật CPS, là tên thương mại của hãng Siemens, với các thông số ghi hình là MI <0.2, FR=14/s, tần số đầu dò là 2-6 MHz, quá trình ghi hình là liên tục bắt đầu từ lúc 10 s sau tiêm qua các thời điểm là 15 đến 40s sau tiêm cho thì động mạch, 50 đến 90 s sau tiêm cho thì tĩnh mạch và thì muộn khoảng 2 phút sau tiêm.
Hình thu được dưới dạng file video clip và hình JPEP được lưu trữ trong ổ đĩa cứng của máy để xem lại được .
Phân tích và đánh giá hình ảnh
Dựa theo kết quả của các công trình nghiên cứu nước ngoài và đặc tính huyết động của nguồn máu đến gan, chúng tôi khảo sát các biến đổi trên hình ảnh ở các khoảng thời gian từ giây thứ 15 đến 40 cho thì động mạch, từ giây thứ 50 đến 90 thì tĩnh mạch cửa và phút thứ 2 trở đi cho thì muộn, xem xét đến các thông tin:
– So sánh độ hồi âm (echogenicity) của u và nhu mô gan trước tiêm và sau tiêm, do cả hai loại chất tuơng phản trên đều là chất cản âm nội mạch nên một cấu trúc biểu hiên tăng hồi âm hơn thì được xem là có nguồn mạch cấp giàu hơn.
– Đặc biệt, chúng tôi chú ý đến những biểu hiên trong thì động mạch sớm phản ảnh bản chất cấp máu cho u và giúp định hướng bản chất mô học của u .
– Việc đánh giá mức độ tương quan giữa u và mô gan ở thì động mạch khi so sánh với hai thì còn lại (thì tm cửa và thì muộn) để nêu lên được hiện tượng rửa sạch CTP (wash-out) của u [2,4,5].
3. KẾT QUẢ
– 14 bệnh nhân tuổi từ 22 đến 76 tuổi, 12 nam và 2 nữ, trong đó gồm có 10 trường hợp ung thư tế bào gan nguyên phát (UTTBGNP) , 01 trường hợp ung thư gan thứ phát (UTGTP), 02 trường hợp u mạch máu (UM) và 01 tăng sản nốt khu trú (TSN). Trong 10 trường hợp UTTBGNP thì 06 trường hợp thuộc thể 1 khối, 04 trường hợp thuộc thể nhiều khối; 01 trường hợp UTGTP có nhiều khối; UM và TSN đều chỉ có một khối.
– Về biểu hiện nhuộm CTP của các u thì thể hiện qua bảng 1.1.
+ Tất cả 10 trường hợp UTTBGNP đều thể hiện các cấu trúc mạch vừa ngoại vi vừa ở trung tâm dạng hình rỗ, phân bố hỗn độn thể hiện rõ trong giai đoạn sớm của thì động mạch sớm, giai đoạn sau của thì động mạch thì nhuộm CTP không đồng nhất nhưng vẫn tăng hồi âm hơn mô gan; trong thì tm cửa và muộn thì có biểu hiện rửa sạch CTP và trở nên giảm hồi âm hơn so với mô gan (hình 1.1).
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích