BƯỚU NÔNG BÀNG QUANG – YẾU TỐ NGUY CƠ- HƯỚNG XỬ TRÍ
Bướu bàng quang là bệnh lý thường gặp của các BS chuyên khoa Niệu tại VN và trên thế giới. Theo một thống kê của Hiệp Hội quốc tếchống ung thư, bướu bàng quang có xuất độ khá cao. Trên nam giới, bướu bàng quang chiếm tỷlệ10% và ñứng hàng thứ tư trong các lọai ung thư, ch ỉsau ung thư của tiền liệt tuyến, phổi và đại trực tràng. Trên nữ giới, bướu bàng quang có tỷ lệ khiêm tốn hơn: 4% và đứng thứ 8 trong bệnh lý ung thư. Tỷ lệ nam/nữ dao động trong khoảng 2,6 – 2,8. Một thống kê tại Hoa Kỳ năm 2003 cho thấy trong năm này có 57 000 trường hợp bướu bàng quang mới được phát hiện, trong đó 74% là nam và 26% là nữ(3). Đến năm 2005, số trường hợp mới tăng lên: hơn 63 000. Còn tại Âu Châu, số trường hợp mới là hơn 104 000(4,6). Thực tếtại VN cho thấy bướu bàng quang vẫn đứng hàng ñầu danh sách các loại bướu ác tính thường gặp ở những bệnh nhân cần nhập viện của các khoa niệu.
Hút thuốc là một thói quen được xem là có liên quan đến ung thư phế quản-phổi, bàng quang và tụy tạng. Tiểu máu đại thể, tái đi tái lại là triệu chứng gợi ý. Hầu hết ung thưbàng quang là ung thư tế bào chuyển tiếp (TCC: Transitional Cell Carcinoma), được xem là bệnh lý của cả niệu mạc (urothelium), nên còn gọi là ung thư niệu mạc (UC: Urothelial Cancer) là danh từ mà Tổchức Y tế thế giới khuyến cáo sử dụng (2,6). Tại Hoa Kỳvà Châu Âu, ở lần khám đầu tiên: khoảng 70% bướu bàng quang là bướu nông và
30% là bướu xâm lấn. Tại VN, đa số bệnh nhân thường đến khám trễ và tỷ lệ bướu xâm lấn khi phát hiện thường cao hơn(6). Nội soi giữ một vai trò quan trọng trong chẩn đoán bướu bàng quang, và là phương pháp điều trị chủ yếu đối với bướu nông(5).
PHÂN LOẠI
1. Độ biệt hóa tế bào (Grading) Theo kinh điển, độ biệt hóa tế bào thường được chia làm 3 mức độ: biệt hóa tốt (grade 1), biệt hóa vừa (grade 2), biệt hóa kém (grade 3). Tuy vậy, hiện nay các chuyên gia khuyến cáo chỉ nên chia làm 2 mức: biệt hóa tốt và biệt hóa kém(2,4).
2. Giai đoạn phát triển của bướu (Staging) Dựa trên mứcđộ xâm lấn vào thành bàng quang, có hay chưa xâm lấn vào mô quanh bàng quang và có hay chưa di căn hạch hoặc các cơ quan khác, mà có nhiều phương thức đánh giá giai đoạn phát triển: OABCD (Jewett-Marshall), TNM (UICC)… Cách phân loại đơn giản nhất là chia làm 2 nhóm: bướu nông và bướu xâm lấn. Bướu nông: chân bướu còn khu trú ở niêm mạc bàng quang (niệu mạc) Bướu xâm lấn: chân bướu đã đến lớp cơthành bàng quang hoặc sâu hơn Phương pháp điều trị chủ yếu đối với bướu nông là cắt đốt nội soi, còn đối với bướu xâm lấn là cắt bàng quang tận căn. Nhiều thống kê cho thấy lúc mới phát hiện, đa số bướu còn ở giai đoạn chưa xâm lấn. Do đó việc chọn lọc và đưa ra các yếu tố nguy cơ góp phần đánh giá dự hậu của các bướu nông khác nhau và chọn lựa phương pháp điều trị thích hợp.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất