các dạng biến đổi giải phẫu đài bế thận ở người Việt Nam trưởng thành trên phim chụp niệu đồ tĩnh mạch
Giải phẫu đài bể thận trên phim chụp niệu đồ tĩnh mạch (UIV) cằn thiết trong thực hành lâm sàng và hiện chưa được nghiên cứu ở Việt Nam. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm mô tả các dạng biến đổi giải phẫu đài bể thận trên phim UIV. Kết quả cho thấy, số lượng đài nhỏ trung bình: 7,18 ± 1,305. Bể thận có 2 đài lớn: 40,5%, có 2 đài lớn không điển hình: 29%, có 3 đài lớn: 30,5%. Bể thận có dạng phễu: 56%, cành cây: 15%, chữ Y: 13%, dạng bóng: 11,5%, dạng chữ T: 4,5%. Vị trí bể thận trong xoang: 55,5 %, phằn lớn trong xoang:
25,5%, trung gian: 16,5% và ngoài xoang: 2,5%. Từ đó có thể kết luận, nghiên cứu giải phẫu đài bể thận trên phim UIVlà khả thi và có tính ứng dụng cao.
Giải phẫu thận kinh điển đã được nghiên cứu và mô tả nhiều trong y văn [4, 7]. Nghiên cứu giải phẫu đài bể thận trên các phương tiên chẩn đoán hình ảnh là môt hướng nghiên cứu mới, không xâm lấn, chân thực và có tính ứng dụng cao trong thực hành lâm sàng. Năm 1929, M.Swick đã mô tả phương pháp chụp niêu đồ tĩnh mạch (urographie intraveineuse – UIV) sử dụng selectan – chất cản quang iode đường tĩnh mạch [7]. Từ đó đến nay, chụp UIV trở thành phương tiên cận lâm sàng không thể thiếu trong chẩn đoán và điều trị các bênh lý tiết niêu, đặc biêt là sỏi tiết niêu. Chụp UIV cho thấy hình thái đài bể thận, trục cổ đài thận, các dị dạng tiết niêu, tình trạng bênh lý tiết niêu giúp lựa chọn phương thức điều trị thích hợp. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu mô tả giải phẫu đài bể thận trên phim UIV [3]. Ở Viêt Nam, cho đến nay chưa có nghiên cứu giải phẫu đài bể thận bình thường trên phim UIV. Xuất phát từ thực tế trên, đề tài này nhằm mục tiêu: mô tả các dạng biến đổi giải phẫu đài bể thận trên phim chụp niêu đồ tĩnh mạch.
II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu mô tả, hồi cứu trên 200 hình ảnh thận bình thường (gồm 100 thận phải và 100 thận trái) trên phim UIV thu thập từ hồ sơ bênh án tại bênh viên Viêt Đức Hà Nôi từ 01/2010 đến 08/2011. Các số liêu thu thập được xử lý trên máy vi tính bằng phân mềm Epi Info™3.5.1, Excel 2010, SPSS 18.0.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Tuổi trung bình: 45,62 ± 10,55. Phân nhóm tuổi: 18 – 25 tuổi: 7 (3,5%), 26 – 35: 30 (15%); 36 – 45: 50 (25%); 46 – 55: 79 (39,5%), 56 – 65: 34 (17%). Giới: Nam: 84 (42%), nữ: 116 (58%).
2. Hình thái đài bể thận trên phim UIV
– Số lượng đài nhỏ trung bình: 7,18 ± 1,305. Nhỏ nhất là 4, lớn nhất là 11.
– Hình thái bể thận theo phân bố đài lớn (hình 1): bể thận có 2 đài lớn: 40,5% (81/200); có 2 đài lớn không điển hình 29% (58/200), có 3 đài lớn 30,5% (61/200). Không có trường hợp nào không có đài lớn hoặc có 4 đài lớn.
– Chiều ngang bể thận trung bình được đo từ chỗ đổ vào bể thận của đài lớn trên và dưới là 20,12 ± 6,052mm. Chiều dọc bể thận trung bình được đo từ đáy bể thận đến khúc nối bể thận – niêu quản là 25,52 ± 8,491mm.
– Hình dạng bể thận theo phân loại của Graves (1986) (hình 2): dạng phễu: 56% (112/200), dạng chữ Y: 13% (26/200), dạng cành cây: 15% (30/200), dạng bóng: 11,5% (23/200), dạng chữ T: 4,5% (9/200).
– Vị trí bể thận so với xoang thận (hình 3): trong xoang: 55,5% (111/200), trung gian: 16,5 % (33/200), ngoài xoang hoặc phân lớn ngoài xoang: 2,5% (5/200), phân lớn trong xoang: 25,5% (51/200).
– Không có mối liên quan giữa hình thái bể thận và vị trí bể thận (p > 0,05).
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích