CÁC DẠNG CỦA ĐỘNG MẠCH TÚI MẬT KHẢO SÁT QUA CẮT TÚI MẬT NỘI SOI
CÁC DẠNG CỦA ĐỘNG MẠCH TÚI MẬT KHẢO SÁT QUA CẮT TÚI MẬT NỘI SOI
Lê Quan Anh Tuấn, Nguyễn Hoàng Bắc
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Biến chứng chảy máu trong cắt túi mật nội soi không hiếm. Một trong những nguyên nhân gây chảy máu là giải phẫu của động mạch túi mật (ĐMTM) rất thay đổi. Việc nhận định ĐMTM trong phẫu thuật nội soi khác với khi phẫu tích trê n xác và mổ hở. Vì vậy, cần phải có phân loại và những hình ảnh của các dạng động mạch (ĐM) qua nội soi nhằm giúp cho việc xác định ĐM dễ dàng hơn.
Mục tiêu: Mô tả các dạng động mạch túi mật khảo sát được qua phẫu thuật nội soi cắt túi mật.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu được thực hiện trên 500 trường hợp cắt túi mật nội soi tại Bệnh viện Đại học Y Dược từ 6-2000 đến 6-2001. Tất cả các trường hợp đều được ghi hình để phân tích.
Kết quả: Chú ng tôi đưa ra bảng phân loại các dạng ĐMTM gồm 3 nhó m dự a vào tương quan của ĐMTM với tam giác gan mật.
Nhóm 1: ĐMTM nằm trong tam giác gan mật 81% gồm 3 phân nhó m. Phân nhó m 1a: có 1 ĐMTM nằm trong tam giác gan mật 43%, phân nhóm 1b: có 2 hoặc 3 nhánh ĐMTM trong tam giác gan mật 36%, phân nhóm 1c: động mạch gan phải chạy sát cổ túi mật và cho các nhánh ĐMTM 2%. Nhó m 2: ngoài các nhánh ĐM nằm trong tam giác gan mật còn có các nhánh ĐM nằm ngoài tam giác gan mật 15% gồm 2 phân nhóm. Phân nhóm 2a: ngoài các nhánh ĐM nằm trong tam giác gan mật còn có 1 nhánh ĐM nằm dưới ngoài ống túi mật 9%, phân nhó m 2b: ngoài các nhánh ĐM nằm trong tam giác gan mật còn có 1 hay 2 nhánh ĐM ở giường túi mật, từ trong gan 6%. Nhó m 3: ĐMTM nằm ngoài tam giác gan mật 4%, phía dướ i ngoài ống túi mật.
Kết luận: Giải phẫu của ĐMTM rất thay đổi. Có nhiều dạng khác nhau về vị trí của ĐM và số lượ ng các nhánh. Vì vậy, khi cắt túi mật nội soi, luôn luôn phải phẫu tích cẩn thận, tỉ mỉ để nhận định rõ các mốc giải phẫu, từng cấu trúc trong tam giác gan mật
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất