Các phương pháp đánh giá tổn thương ĐMV trong bệnh Kawasaki ở trẻ em

Các phương pháp đánh giá tổn thương ĐMV trong bệnh Kawasaki ở trẻ em

Kawasaki là bệnh sốt cấp tính có viêm mạch hệ thống thường gặp ở trẻ nhỏ. Bệnh được chia thành 3 giai đoạn: giai đoạn cấp, bán cấp và giai đoạn muộn. Giai đoạn cấp kéo dài khoảng 1- 2 tuần, được đặc trưng bởi triệu chứng sốt và các biểu hiện viêm cấp. Giai đoạn bán cấp bắt đầu từ 2- 4 tuần sau khi bệnh khởi phát. Ở giai đoạn này bệnh nhân thường có dấu hiệu bong da đầu chi và tổn thương ĐMV. Giai đoạn muộn, không còn các triệu chứng lâm sàng [7], [30], [31]

Kawasaki là bệnh gây tổn thương các mạch máu nhỏ và vừa, đặc biệt là tổn thương ĐMV. Ở Mỹ và Nhật bản, bệnh đã trở thành bệnh tim mắc phải hàng đầu ở trẻ em. Tỷ lệ tổn thương ĐMV theo các nghiên cứu trước đây vào khoảng 25%. Tuy nhiên kể từ khi đưa Immuno globulin vào điều trị, tỷ lệ này đã giảm xuống dưới 10% [7], [31], [35]. Tổn thương phình giãn có thể gặp ở cả các động mạch khác như động mạch chậu, động mạch đùi và động mạch thận. Trong suốt giai đoạn cấp, các tế bào viêm (bạch cầu trung tính, đại thực bào, bạch cầu lympho và tương bào) thâm nhiễm vào lớp tế bào nội mô và cơ trơn ở thành mạch làm cho chức năng lớp tế bào nội mô suy giảm [25]. Thành mạch mất cấu trúc và trở nên yếu dẫn đến phình giãn. Ở giai đoạn sau, tổn thương trở nên xơ và tạo sẹo. Tốc độ dòng máu tại chỗ phình sẽ chậm lại, gây nguy cơ hình thành huyết khối làm hẹp, tắc lòng mạch [30], [35].

Khoảng hơn một nửa số bệnh nhân có tổn thương ĐMV trong giai đoạn cấp sẽ hồi phục sau 1-2 năm. Những động mạch chỉ bị giãn mức độ nhẹ và vừa có khả năng hồi phục hơn những động mạch phình lớn. Ở những ĐMV có tổn thương không hồi phục sẽ tiến triển đến hẹp nhiều gây nhồi máu cơ tim cho trẻ. Biến chứng này hay xảy ra trong năm đầu sau khi bị bệnh. Ngoài ra nguy cơ vỡ phình ĐMV cũng có thể gặp [9], [22], [35], [44].

Đánh giá mức độ và vị trí tổn thương ĐMV là rất cần thiết để quyết định phương thức điều trị thích hợp. Đây thực sự là một thách thức đối với các bác sĩ nhi khoa vì nhiều bệnh nhân tiến triển tổn thương ĐMV mà không có biểu hiện lâm sàng gì cho đến khi xuất hiện biến chứng nhồi máu cơ tim hoặc chết đột tử [16]. Các phương pháp thăm dò ĐMV hiện nay hay được sử dụng là: Siêu âm tim, chụp cắt lớp vi tính nhiều lớp, SPECT (single-photon emission computed tomography), chụp ĐMV và chụp cộng hưởng từ. Tuỳ theo từng giai đoạn bệnh và điều kiện của từng nơi mà sử dụng phương pháp thích hợp. Chuyên đề này xin được đề cập đến:

Các phương pháp đánh giá tổn thương ĐMV trong bệnh Kawasaki ở trẻ em

 

Leave a Comment