CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ CÒN ỐNG ĐỘNG MẠCH

CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ CÒN ỐNG ĐỘNG MẠCH

 Ống động mạch được biết đến lần dầu tiên từ thời Galen, năm 131 sau công nguyên. Vào năm 181 sau CN. Harvey ñã chứng mính tầm quan trọng của Ống động mạch trong tuần hoàn thai nhi (1628)(8,21,30). Vào thế kỷ thứ XVII, Leonardo Botallo ñã mô tả cụ thể ống ñộng mạch và sau đó được ñặt tên là ống Botal(31,32).

Năm 1888, lần ñầu tiên tác giả Munro đã phân tích và thắt ống động mạch khi khảo sát trên tử thi cửa một trẻ nhũ
nhi. Năm 1900, Gibson mô tả tiếng thổi liên tục kinh điển nhe “như tiếng máy” để chẩn đoán bệnh còn ống ñộng mạch. Sau ñó 19 năm, chính Munro lại nêu ý kiến cho rằng không có phương pháp nào ñể ñóng ống ñộng mạch ngoài
phẫu thuật2130(21,30). Phẫu thuật tim mạch ñã tạo nên “Một bước nhảy to lớn” khi Robert E.Gross và Hubbarb lần ñầu
tiên trên thế giới thắt thành công ống ñộng mạch cho một bệnh nhân gái 7 tuổi tại bệnh viện nhi khoa Boston (Hoa
kỳ) vào ngày 26-08-1938. Sau ñó, ông ñã phát triển kỹ thuật cắt khâu ống ñộng mạch như là một phương pháp
phẫu thuật ưa lựa chọn hơn là thắt ống ñộng mạch(33,22).
Năm 1940, Touroff và Vesell lần ñầu tiên ñóng thành công ống ñộng mạch bị viêm nội mạc, và một số tác giả khác về sau này cũng ñã báo cáo các trường hợp cắt thành công ống ñộng mạch bị viêm nội mạc bán cấp(21,30). Năm
1946, Blalock mô tả kỹ thuật thắt ống ñộng mạch bang 3 nút chỉ mà hiện nay còn ñược áp dụng cho một số trường
hợp còn ống ñộng mạch ở trẻ nhũ nhi(9,12). Năm 1950, Scott ñã thắt nhiều nút ñể làm tắc toàn bộ chiều dài của ống ñộng
mạch và cho kết quả tốt(3). Năm 1963, Powell và De-Canq với tư cách ñộc lập nhau, lần ñầu tiên ñã ñóng ống ñộng
mạch bằng phẫu thuật ở trẻ ñẻ non có cân nặng 1.400 gram. Sau đó, sự cải thiện về tình trạng tim mạch của trẻ ñẻ non ñược đóng ống ñộng mạch ñã ñược chứng minh bằng hiệu quả rõ ràng(3,22). Năm 1966, Morrow và Clark gợi ý là có thể ñóng ống động mạch bằng một miếng vá ở phía trong ống ñộng mạch. Phương pháp này dành cho những ống động mạch bị vôi hóa nặng hoặc trường hợp ống động mạch tái thông sau phẫu thuật(41). Năm 1971, Werner Porstmann và CS ñã ñưa ra kỹ thuật ñóng ống ñộng mạch bằng nút Ivalon qua catheter ñưa vào ñường ñộng mạch đùi(1,25). Từ phát hiện quan trọng về sự ñáp ứng của ống động mạch với Prostaglandin E1 và sau ñó năm 1976,
Heyman lần ñầu tiên ñã ñưa áp dụng lâm sàng Indomethacine ñể ñóng ống ñộng mạch bằng thuốc ở trẻ ñẻ non, khi ñó phẫu thuật không còn là phương pháp ñiều trị duy nhất nữa(5,25). Năm 1979, Rashkind và Cuaso ñã phát triển một dụng cụ mới: ñĩa có phủ bọt polyurethane ñược giữ trong một hệ thống có thể ñưa qua ñường tĩnh mạch hoặc ñộng mạch(1). Nút ñóng cũng thay ñổi trong nhiều năm qua, từ nút Rashkind, vòng Gianturco, dù Cardio SEAL, ñến nút Amplatzer PDA(1). Ngày 05-09-1991, Francois
Laborde và CS lần ñầu tiên ñóng thành công ống ñộng mạch qua soi lồng ngực dưới hỗ trợ của truyền hình(24).
Tại Việt Nam, lần ñầu tiên Tôn Thất Tùng đã phẫu thuật thắt thành công ống ñộng mạch vào năm 1959. Tại
Viện Tim Tp. Hồ Chí Minh, phẫu thuật cắt-khâu ÔĐM được thực hiện lần đầu tiên vào năm 1991. Tác giả Nguyễn Khánh Dư cũng có nhiều kinh nghiệm và cải tiến trong phẫu thuật còn ống ñộng mạch

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment