CÁC PHƯƠNG PHÁP NGOẠI KHOA THƯỜNG ĐUỢC SỬ DỤNG ĐỂ XỬ TRÍ TIỂU KHÔNG KIỂM SOÁT DO GẮNG SỨC Ở NỮ
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGOẠI KHOA THƯỜNG ĐUỢC SỬ DỤNG ĐỂ XỬ TRÍ TIỂU KHÔNG KIỂM SOÁT DO GẮNG SỨC Ở NỮ
Phạm Văn Bùi
TÓM TẮT :
THE MOST COMMON SURGICAL PROCEDURES USED IN THE MANAGEMENT OF FEMALE STRESS URINARY INCONTINENCE
PHẪU THUẬT Ở ÂM ĐẠO ĐỂ ĐIỀU TRỊ TKKSDGS
Các phương pháp sử dụng võng treo(sling). Các võng treo được thiết kế chuyên biệt để đáp ứng yêu cầu di động quá mức và sự khiếm khuyết nội tại của cơ thắt trong TKKSDGS. Tỷ lệ thành công lâu dài 83% với các biến chứng nội ngoại khoa của kỹ thuật sử dụng võng treo tương đương với các kỹ thuật treo cổ bàng quang qua đường sau xương mu hay xuyên âm đạo. Các kỹ thuật sử dụng võng treo kinh điển được thực hiện qua ngả bụng-tầng sinh môn và gần đây hơn qua các phương pháp nội soi. Sự sử dụng các mỏ neo bằng xương ở mặt dưới cành xương mu hay khớp mu để may các mối chỉ cố định võng treo có thể thực hiện xuyên qua âm đạo[12].
Võng treo mu-âm đạo bằng cân cơ thẳng. Kỹ thuật này được McGuire và cộng sự[7] giới thiệu vào năm 1978. Cân cơ tự thân có ưu điểm là sử dụng được lâu dài và giảm tỷ lệ phải lấy bỏ vì nhiễm trùng và gây loét niệu đạo.
Các vật liệu đồng loại và tổng hợp. Các vật liệu này được xem như các võng treo được ưu tiên lựa chọn do dễ có và do phẫu thuật viên ưa thích để có thể thực hiện phẫu thuật nhanh hơn[1].
Võng treo sử dụng thành âm đạo tại chỗ. Loại võng này được Raz[9] giới thiệu và được chấp nhận sử dụng cho bệnh nhân do tính chất và cấu trúc của thành âm đạo, đặc biệt cho các BN có đồng thời chức năng cơ chóp bàng quang xấu. Tuy nhiên , theo thời gian, thành âm đạo tỏ ra ngày càng kém hiệu quả và thất bại thường xảy ra ở những thời điểm sớm hơn mặc dù cổ bàng quang vẫn ổn định. Sự hài lòng của bệnh nhân trong nhóm này chưa được biết, nhưng được tin là thấp
VÕNG TREO ĐẶT GIỮA NIỆU ĐẠO[12]
Dải treo âm đạo không căng(Tension Free Vaginal Tape – TVT) . Do Ulmsten[11] giới thiệu, tác giả này đă sử dụng võng treo tổng hợp đặt xuyên qua âm đạo, đi ngược chiều, hướng ra phía sau xương mu để đặt bộ phận nâng đỡ của võng neo vào ở vị trí của cân cơ thẳng bụng. Do hệ số cọ sát giữa chất liệu của võng với tất cả các mô, tổ chức xung quanh nên không cần thiết phải buộc chặc chất liệu của võng vào cân cơ thẳng bụng nhờ đó giảm nguy cơ gây tắt niệu đạo do treo võng quá cao. Đã có rất nhiều báo cáo cho thấy tỷ lệ thành công cao và chủ yếu là các biến chứng tối thiểu. Cho đến nay, sau khoảng 10 năm ứng dụng ở Mỹ và châu Âu, các kết quả đạt được với phương pháp này rất khích lệ. Nilson và cộng sự[12] đã báo cáo tại hội nghị niệu học quốc tế năm 2004, tỷ lệ thành công trong dài hạn đạt được 84%, có vẻ như tốt hơn tỷ lệ thành công chung của nghiên cứu phương pháp Burch treo cùng đồ qua nội soi thực hiện ở Cleveland Clinic ở Mỹ[14] . Các báo cáo ứng dụng TVT cho các BN phức tạp hơn như trường hợp điểm dò nước tiểu ở áp lực thấp hơn, độ di động niệu đạo kém hơn, tiểu không kiểm soát do nguyên nhân hỗn hợp[3], các kết quả cũng khích lệ kể cả ở những dưới nhóm BN có nhiều vấn đề phức tạp hơn nữa [2,8,10].(hình 1)
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất