CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG TỬ VONG HOẶC TÁI NHẬP VIỆN TRONG VÒNG 30 NGÀY SAU XUẤT VIỆN TRÊN BỆNH NHÂN SUY TIM
CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG TỬ VONG HOẶC TÁI NHẬP VIỆN TRONG VÒNG 30 NGÀY SAU XUẤT VIỆN TRÊN BỆNH NHÂN SUY TIM
Triệu Khánh Vinh1,2, Hoàng Văn Sỹ1,2,
Mở đầu: Tái nhập viện trong vòng 30 ngày sau xuất viện được dùng làm tiêu chuẩn đo lường chất lượng cho các bệnh nhân nội viện, đặc biệt trên bệnh nhân suy tim khi mà tần suất tử vong trong vòng 30 ngày tại Việt Nam là 2 – 3% [7]. Do đó đánh giá các yếu tố tiên lượng tử vong hoặc tái nhập viện trong vòng 30 ngày sau xuất viện đóng vai trò quan trọng trong quản lý các bệnh nhân suy tim. Mục tiêu: Đánh giá các yếu tố tiên lượng tử vong hoặc tái nhập viện trong vòng 30 ngày sau xuất viện trên bệnh nhân suy tim. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, khảo sát bệnh nhân suy tim nằm tại khoa Nội tim mạch, bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 10/2021 đến tháng 5/2022. Kết quả: Từ tháng 10/2021 đến tháng 5/2022 có 111 bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu. Trong đó nam giới có 56 bệnh nhân (chiếm 50,4%). Tuổi trung bình là 62 ± 18,1 năm. Có 27 bệnh nhân (24,3%) có biến cố tử vong hoặc tái nhập viện trong vòng 30 ngày sau xuất viện. Các yếu tố nguy cơ cho tử vong hoặc tái nhập viện trong vòng 30 ngày lần lượt là: tiền căn rung nhĩ (OR = 7,45), tiền căn suy tim (OR = 1,15), phân độ NYHA IV lúc xuất viện (OR = 5,47), có ngoại tâm thu trên điện tâm đồ (OR = 7,13), có rung nhĩ trên điện tâm đồ (OR = 7,13), tỉ số E/A cao (OR = 1,813), tỉ số E/e’ trung bình cao (OR = 1,06), điều trị kháng đông lúc xuất viện (OR = 4,55) và điều trị nitrate lúc xuất viện (OR = 2,69). Thang điểm với 3 yếu tố bao gồm tiền căn suy tim, phân độ NYHA IV lúc xuất viện và có rung nhĩ trên điện tâm đồ có diện tích dưới đường cong ROC là 0,7174 (KTC 95%, 0,598 – 0,818) với điểm cắt là ≥1 điểm có độ nhạy là 70,27% và độ đặc hiệu là 62,96%. Kết luận: Các bệnh nhân suy tim có tỉ lệ tử vong hoặc tái nhập viện trong vòng 30 ngày cao sau xuất viện. Dự đoán nhóm bệnh nhân suy tim có nguy cơ tử vong hoặc tái nhập viện trong vòng 30 ngày dựa trên các yếu tố về lâm sàng không quá phức tạp nhằm đưa ra chiến lược quản lý tối ưu.
Suy tim là một hội chứng không đồng nhất, và cả trường hợp xác định lẫn phân loại các bệnh nhân trong các nghiên cứu dịch tễ học vẫn còn đang thách thức. Hiện nay, ước tính có khoảng 64,3 triệu người trên thế giới đang chung sống với suy tim. Sau khi chẩn đoán, số lần trung bình bệnh nhân suy tim nhập viện là khoảng một lần mỗi năm. Dựatheo số liệu từ nghiên cứu dựa trên đa chủng tộc Châu Á tại thành phố Singapore đơn thuần, tỷ lệ nhập viện vì suy tim hiệu chỉnh theo tuổi đã tăng 40% trong thập kỷ qua, làm cho suy tim trở thành nguyên nhân tim mạch nhập viện thường gặp nhất (với khoảng24% tổng số tất cả trường hợp nhập viện vì tim mạch), với chỉ 32% sống còn sau 5 năm. Nghiên cứu của các chuyên gia từ 9 quốc gia hoặc vùng của Châu Á (trong đó có cả Việt Nam) vào năm 2016 đã báo cáo tỷ lệ tái nhập viện trong 30 ngày dao động giữa 3% đến15%, trong đó thì tại Việt Nam là 7% và tỷ lệ tử vong trong 30 ngày sau xuất viện dao động từ 1% đến 17%, trong đó tại Việt Nam là 2 -3%.Từ đó cho thấy việc nhận diện các bệnh nhân suy tim có nguy cơ tử vong hoặc tái nhập viện sớm hết sức quan trọng trong chiến lược điều trị và quản lý các bệnh nhân này. Để làm rõ vấn đề đó, chúng tôi tiến hành khảo sát các yếu tố nguy cơ tử vong hoặc tái nhập viện trong vòng 30 ngày sau xuất viện trên bệnh nhân suy tim tại khoa Nội Tim mạch bệnh viện Chợ RẫyMục tiêu: Khảo sát các yếu tố nguy cơ tử vong hoặc tái nhập viện trong vòng 30 ngày sau xuất viện trên bệnh nhân suy tim nhập viện.
Nguồn: https://luanvanyhoc.com