CẤP CỨU CƠN NHỊP NHANH Ở TRẺ EM
CẤP CỨU CƠN NHỊP NHANH Ở TRẺ EM
Đỗ Nguyên Tín*, Vũ Minh Phúc*, Hoàng Trọng Kim*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát đặc điểm và xử trí cấp cứu các cơn nhịp nhanh ở trẻ em tại Bệnh Viện Nhi Đồng 1.
Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu, hồi cứu, thống kê mô tả.
Bệnh nhân: Bệnh nhân bị nhịp nhanh được cấp cứu tại Bệnh Viện Nhi Đồng I có tử vong hoặc không.
Kết quả: Trong 3 năm, chúng tôi có cấp cứu 104 cơn nhịp nhanh cho 82 bệnh nhân. Trong đó có 78 cơn nhịp nhanh với biểu hiện trên ECG có hình ảnh QRS hẹp (chiếm 75%) và 26 cơn nhịp nhanh có QRS dãn (chiếm 25%). Nhịp nhanh có QRS hẹp có tỷ lệ rối loạn huyết động học ít hơn (25.6%so với 38.5%; p = 0.039), nhịp tim nhanh hơn (233.6 ± 46 so với 202.3±58; P= 0.006), có tiền căn nhịp nhanh nhiều hơn (35.9 so với 15.4; p<0.05) so với nhịp nhanh có QRS dãn. Các thuốc cắt thành công cơn nhịp nhanh với QRS hẹp gồm ATP, adenosine (64.7%), digoxin (40%), verapamil (37.5%), amiodạrone (50%), sốc điện (50%). Các thuốc cắt thành công cơn nhịp nhanh với QRS dãn gồm lidocain (38.5%), amiodạrone (66.7%), sốc điện (12.5%). Bệnh nhân có rối loạn huyết động tiên lượng xấu hơn nhiều.
Kết luận: Nhịp nhanh có QRS hẹp chiếm tỷ lệ cao, hay táiphát, ít gây rối loạn huyết động và đáp ứng với ATP, adenosine, verapamil, amiodarone với tỷ lệ cắt cơn cao. Nhịp nhanh có QRS dãn ít gặp hơn, có nguy cơ rối loạn huyết động cao đáp ứng tốt với lidocain, sốc điện và amiodarone. Nhịp nhanh có rối loạn huyết động tiên lượng xấu hơn nhiều, cắt cơn khó và ít thành công với các liệu pháp
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất