CHỤP MẠCH MÁU BẰNG KỸ THUẬT SỐ XÓA NỀN (DSA) TRONG BỆNH TAKAYASU Ở TRẺ EM

CHỤP MẠCH MÁU BẰNG KỸ THUẬT SỐ XÓA NỀN (DSA) TRONG BỆNH TAKAYASU Ở TRẺ EM

 CHỤP MẠCH MÁU BẰNG KỸ THUẬT SỐ XÓA NỀN (DSA) TRONG BỆNH TAKAYASU Ở TRẺ EM 

Đỗ Nguyên Tín*, Vũ Minh Phúc*, Hoàng Trọng Kim* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu:Mô tả những đăc điểm trong chụp DSA ở những bệnh nhi bị Takayasu. 
Đối tượng: Tất cả bệnh nhi được chẩn đoán bệnh Takayasu có chụp DSA tại Khoa Tim Mạch Bệnh Viện Nhi Đồng I. 
Phương pháp: Tiền cứu và hồi cứu. Thống kê mô tả hàng loạt ca.
Kết Quả: Trong 3 năm thực hiện chụp DSA, chúng tôi có 24 ca được chẩn đoán Takayasu có chụp mạch máu. Tuổi trung bình 10.46 ± 3.41. Đa số bệnh nhân đều có tăng huyết áp (58.2%) và có biểu hiện giảm hoặc mất mạch chi (75%). Đa số có nhiều hơn 1 thương tổn mạch máu (62.5%), 3 BN có 6 sang thương. Vị trí tổn thương đa số ở động mạch chủ bụng11 ca (45.8%), động mạch thận P 17 ca (70.8%) và T 11 ca (45.8%). Phân loại tổn thương đa số là typeII (17 ca chiếm 71%) và III (6 ca chiếm 25%) theo ACR và type IV (17 ca chiếm 71%) và type V (6 ca chiếm 25%) theo hội nghị Takayasu 1994. Các tổn 
thương thường gặp nhất là hẹp và hẹp kèm theo dãn các mạch máu. Đa số các trường hợp chúng tôi chụp DSA qua ngã động mạch đùi P, ống thông 4F cho trẻ nhỏ hơn 10 tuổi và ống thông 5 F dùng cho trẻ lớn hơn 10 tuổi. Tất cả trẻ dưới 10 tuổi đều phải gây mê, trong khi đó trẻ trên 10 tuổi có thể gây tê tại chỗ để thực hiện thủ thuật. Không ghi nhận biến chứng nào đáng kể xảy ra. 
Kết luận: Chụp DSA là một phương tiện chẩn đoán chính xác về vị trí, số lượng và đặc điểm các tổn thương mạch máu trong bệnh Takayasu và an toàn cho trẻ em

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment