CO GIẬT NỬA MẶT KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BẰNG VI PHẪU THUẬT GIẢI ÉP VI MẠCH TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
CO GIẬT NỬA MẶT KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BẰNG VI PHẪU THUẬT GIẢI ÉP VI MẠCH TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
Trần Hoàng Ngọc Anh , Dương Thanh Tùng , Lê Cao Thắng**, Lê Trọng Nghĩa**, Trịnh Xuân Hậu**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, kỹ thuật phẫu thuật và kết quả điều trị co giật nửa mặt bằng phẫu thuật giải ép vi mạch tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Phương pháp: Mô tả tiền cứu các trường hợp co giật nửa mặt được điều trị bằng phẫu thuật giải ép vi mạch từ tháng 4 năm 2010 đến tháng 10 năm 2012. Bệnh nhân được ghi nhận triệu chứng lâm sàng, khảo sát mối tương quan mạch máu và thần kinh vùng góc cầu tiểu não bằng hình ảnh MRI, đánh giá kết quả cải thiện triệu chứng theo thang điểm Jankovic, các biến chứng, và theo dõi bằng tái khám hoặc qua điện thoại.
Kết quả: 30 trường hợp co giật nửa mặt được phẫu thuật trong vòng 30 tháng. Ti lệ nam / nữ là 1/6,5 (4/26 ca), tuổi trung bình là 47,9±8,4, thời gian co giật trung bình trước phẫu thuật là 6±3,7 năm, 29 trường hợp có triệu chứng điển hình (96,7%), co giật thường bị bên trái (19 trường hợp, 63,3%). 28 trường hợp (93%) có hình ảnh gợi ý mạch máu chèn vào phức hợp VII, VIII bên co giật. Có 13 (43,3%) trường hợp đã được điều trị bằng tiêm botulinumtoxin.
Thời gian theo dõi trung bình là 12,8±9,5 tháng, 26 (86%) bệnh nhân hết co giật lúc xuất viện, sau thời gian theo dõi số trường hợp hết co giật tăng lên 28 (93,3%). Không có trường hợp nào tử vong. Sau mổ, các bệnh nhân thường hay bị chóng mặt, liệt nhẹ mặt bên phẫu thuật và hầu hết đều hồi phục.
Kết luận: Kết quả nghiên cứu tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định, mặc dù số lượng bệnh nhân chưa nhiều, nhưng cũng cho thấy co giật nửa mặt là một rối loạn về chức năng với triệu chứng lâm sàng điển hình là yếu tố quyết định chẩn đoán. Phẫu thuật giải ép vi mạch là phương pháp điều trị hiệu quả cao và tỉ lệ biến chứng thấp.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Co giật nửa mặt là một rối loạn về chức năng thần kinh đã được biết đên từ lâu gây ảnh hưởng rất lớn đêh đời sống sinh hoạt và công việc của người bệnh. Một trường hợp co giật nửa mặt điển hình sẽ bị những cơn co giật một bên mặt, ngắt quãng, không tự ý và không gây đau(6712).
Cho đên nay, nguyên nhân gây ra cơn co giật mặt được cho là do dây thần kinh VII bị chèn ép bởi một hay nhiều mạch máu tại vùng REZ (vùng gốc đi ra của dây VII) là nơi chuyển tiêp giữa các tê’ bào chứa myelin trung ương (oligodendroglial cell) thành các tê’ bào chứa myelin ngoại biên (Schwann cell)(136). Năm 1976, Jannetta là người đầu tiên mô tả chi tiêt về giả thuyêt tương tác mạch máu thần kinh này, và ông cũng là người hoàn thiện kỹ thuật mổ vi phẩu giải ép vi mạch để điều trị chứng co giật nửa mặt. (7)
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trên thê’ giới về phẫu thuật giải ép vi mạch trong điều trị co giật nửa mặt. Năm 2002, Madjid Samii(12) báo cáo 143 trường hợp vi phẩu giải ép dây VII với tỉ lê thành công lên đên 90%. Năm 2009, Võ Văn Nho(13) báo cáo 30 trường hợp co giật nửa mặt và trên 80% trường hợp phẫu thuật có hiệu quả. Rất nhiều nghiên cứu khác cũng cho kêt quả khả quan tương tự(8). Do vậy, mặc dù y học hiện đại chưa cho ra câu giải thích rõ ràng về cơ chê’ bệnh sinh của chứng co giật nửa mặt, nhưng phẫu thuật giải
ép vi mạch vẫn được chấp nhận là phương pháp điều trị tốt nhất cho loại bệnh lý này.
Từ tháng 4 năm 2010, Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định bắt đầu triển khai kỹ thuật này, cho đên nay đã điều trị cho nhiều bệnh nhân bị co giật nửa mặt vói kêt quả khá khả quan. Mục tiêu của chúng tôi trong nghiên cứu này là mô tả đặc điểm triệu chứng lâm sàng, hình ảnh MRI, kỹ thuật vi phẩu giải ép vi mạch và hiệu quả mà chúng tôi đạt được trong điều trị chứng co giật nửa mặt.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất