ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH TẠNG Ở BỆNH NHÂN VIÊM TỤY CẤP
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH TẠNG Ở BỆNH NHÂN VIÊM TỤY CẤP
Võ Thị Lương Trân1, Bùi Hữu Hoàng1
TÓM TẮT :
Mục tiêu: Ở bệnh nhân viêm tụy cấp (VTC), huyết khối tĩnh mạch (HKTM) tạng là một biến chứng không thường gặp nhưng có thể đưa đến những hậu quả nặng nề. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và các yếu tố nguy cơ của HKTM tạng ở bệnh nhân VTC.
Đối tượng – phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích được thực hiện trên 223 bệnh nhân được chẩn đoán VTC tại Chợ Rẫy từ 9/2019 đến 06/2020. HKTM tạng được xác định bằng CT scan bụng có bơm thuốc cản quang. Chúng tôi ghi nhận các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, diễn tiến và kết cục của bệnh nhân ở hai nhóm có và không có HKTM tạng.
Kết quả: Trong 223 bệnh nhân VTC tham gia nghiên cứu, 38 bệnh nhân (17%) có biến chứng HKTM tạng, trong đó HKTM lách chiếm tỉ lệ 55,3%, HKTM lách kèm HKTM cửa 21,1%, HKTM lách kèm HKTM mạc treo 7,9%, huyết khối cả 3 tĩnh mạch lách, cửa và mạc treo 2,6%. Tuổi trung bình là 42,5. Tỉ lệ nam/nữ là 3,7/1. Triệu chứng thường gặp trong nhóm có HKTM tạng là đau bụng (100%) và nôn ói (63,2%). Không có sự khác biệt về lâm sàng, cận lâm sàng giữa hai nhóm có và không có HKTM tạng. Hai yếu tố nguy cơ của HKTM tạng ở bệnh nhân VTC đã được xác định, đó là: hút thuốc lá (TSC: 3,36, KTC 95%: 1,21 – 9,33, p=0,02) và hoại tử vùng đuôi tụy (TSC: 7,13, KTC 95%: 2,57 – 19,80, p=0,00).
Kết luận: Tỉ lệ bệnh nhân VTC có biến chứng HKTM tạng là 17%. Không có sự khác biệt về triệu chứng lâm sàng cũng như cận lâm sàng giữa 2 nhóm có và không có HKTM tạng. Hai yếu tố nguy cơ của HKTM tạng ở bệnh nhân VTC là hút thuốc lá và hoại tử vùng đuôi tụy.
Viêm tụy cấp là một trong những bệnh tiêu hóa thường gặp ở khoa Cấp cứu. Nhiều khảo sát cho thấy tỉ lệ mới mắc của VTC trên thế giới dao động từ 4,9 đến 73,4 ca mỗi 100.000 dân(1). Hầu hết c{c trường hợp VTC là thể nhẹ, thường hồi phục ho|n to|n không để lại biến chứng với tỉ lệ tử vong dưới 1%. Tuy nhiên, VTC cũng có thể gây ra rất nhiều biến chứng tại chỗ và toàn thân. Khoảng 10 – 20% c{c trường hợp VTC diễn tiến nặng và tỉ lệ tử vong có thể đến 25 – 30%(2).
Trong số các biến chứng tại chỗ của VTC, huyết khối tĩnh mạch (HKTM) tạng không phải là một biến chứng thường gặp nhưng có thể đưa đến những hậu quả nặng nề như xuất huyết tiêu hóa, thiếu máu nuôi ruột non, tăng {p cửa và suy gan. Tỉ lệ mới mắc của HKTM tạng dao động từ 1 đến 24% tùy thuộc vào thiết kế nghiên cứu v| phương ph{p được sử dụng để phát hiện huyết khối(3). Huyết khối thường xảy ra ở tĩnh mạch l{ch, tĩnh mạch cửa v| tĩnh mạch mạc treo tràng trên, có thể đơn độc hoặc phối hợp với nhau. Triệu chứng của HKTM tạng thường mơ hồ, có thể trùng lắp với triệu chứng của VTC và đa số c{c trường hợp được phát hiện tình cờ nhờ vào các xét nghiệm hình ảnh học được thực hiện khi đ{nh gi{ độ nặng và diễn tiến của VTC.