ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN BÉO PHÌ TẠI KHOA DINH DƯỠNG BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG I TRONG NĂM 2000 -2002
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN BÉO PHÌ TẠI KHOA DINH DƯỠNG BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG I TRONG NĂM 2000 -2002
Nguyễn Thị Hoa
TÓM TẮT :
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm bệnh nhân béo phì tại khoa dinh dưỡng bệnh viện Nhi Đồng I, tìm yếu tố nguy cơ của béo phì nặng và bước đầu đánh giá kết quả điều trị bệnh nhân béo phì Phương pháp: mô tả cắt ngang 330 bệnh nhân đến khám béo phì và mô tả theo chiều dọc 81 bệnh nhân béo phì đã điều trị trên 3 tháng. Kết quả: Về tính tự giác đưa con khám bệnh: chỉ có 69,3% là tự đưa trẻ đi khám, còn lại (30,7%) là do bác sĩ chỉ định.Về đặc điểm lâm sàng: 61,8% bệnh nhân là béo phì nặng; 2,7% bị cao huyết áp; 42,8% ngủ ngáy; 26,8% thở mệt; 32,2% đau đầu; 17,5% đau đầu gối; 3,7% đau lưng.Về đặc điểm cận lâm sàng: 39,1% có hình ảnh gan nhiễm mỡ trên siêu âm; 18,3% có rối loạn đường máu; 74,3% có rối loạn lipid máu trong đó có 74,3% tăng Triglycerides, 12,3% tăng Cholesterol, 13,9% tăng LDL, 11,7% giảm HDL.Về yếu tố nguy cơ béo phì nặng: Trẻ nam, trẻ có mẹ thừa cân, trẻ học bán trú có nguy cơ béo phì nặng gấp 1,58 lần so với trẻ nữ (p = 0,05); 1,84 lần so với trẻ không có mẹ thừa cân (p = 0,05); 1,65 lần trẻ không học bán trú (p = 0,03).Trẻ bị béo phì nặng nguy cơ ngủ ngáy nhiều hơn gấp 2,25 lần so với béo phì nhẹ (p < 0,001) Trẻ bị béo phì nặng nguy cơ bị gan nhiễm mỡ gấp 2,58 lần (p = 0,001), tăng Triglycerides 2,65 lần (p = 0,005) so với béo phì nhẹ. Trẻ béo phì nặng có tỷ lệ mỡ cao hơn trẻ béo phì nặng (31,405 ± 10,89% so với 30,25 ± 7,64%,p = 0.004) Về kết qủa điều trị: bằng phương pháp tham vấn dinh dưỡng và luyện tập kết quả là cân nặng / chiều cao giảm(từ 145,93 ± 31,16% trước điều trị xuống 142,39 ± 38,77%, p = 0.02); BMI giảm (từ 23,78 ± 6,85 xuống 23,08 ± 7,22, p = 0,0006); Tỷ lệ mỡ giảm (từ 32,46 ± 5,31% xuống 30,68 ± 6,41%, p = 0,0006); LDL giảm (từ 91,05 ± 54,52 mg/dl xuống 81,39 ± 60,024mg/dl, p = 0,04); HDL tăng (39,72 ± 19,08 mg/dl lên 41,61 ± 10,93mg/dl, p = 0,01). Các chỉ số như huyết áp, VLDL, đường máu, gan nhiễm mỡ cũng có thay đổi nhưng chưa có ý nghĩa thống kê vì số lượng nghiên cứu nhỏ, cần nghiên cứu thêm. Không ghi nhận biến chứng trong khi điều trị. Kết luận: Gia đình chưa chủ động đưa trẻ đi khám và điều trị béo phì sớm do đó trẻ được khám và điều trị béo phì muộn nên đa số đã có biến chứng lâm sàng và cận lâm sàng. Trẻ càng béo phì nặng càng có nhiều những biến chứng xấu về sức khỏe. Những đối tượng cần chú ý vì dễ bị béo phì nặng là trẻ nam, học bán trú và có mẹ thừa cân. Phương pháp tham vấn dinh dưỡng và luyện tập dựa vào tập quán sinh hoạt của bệnh nhân của Khoa dinh dưỡng Bệnh viện Nhi đồng I bước đầu tỏ ra có hiệu quả cần nghiên cứu thêm về hiệu quả lâu dài của phương pháp.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất