Đặc điểm dịch tễ huyết thanh học bệnh quai bị tại một số địa phương phía bắc Việt Nam
1620 mẫu huyết thanh thu thập được tại Thái Nguyên (đại diên cho các tỉnh miền núi phía Bắc) và Hưng Yên (đại diên cho các tỉnh đổng bằng Bắc Bộ) đã được xét nghiêm phát hiên kháng thể IgG của virút quai bị. Tỷ lê mẫu huyết thanh quai bị dương tính chung là 43% và tỷ lê này ở nữ giới cao hơn so với nam giới. Tỉnh đổng bằng có tỷ lê dương tính cao hơn so với tỉnh miền núi. Tại địa dư sông thuận lợi ở tỉnh đổng bằng, tỷ lê có kháng thể quai bị dương tính cao hơn so với địa dư sông không thuận lợi, tuy nhiên không có sự khác biệt về tỷ lê giữa 2 nơi này tại tỉnh miền núi. Tỷ lê huyết thanh quai bị dương tính tăng dần theo lứa tuổi. Có tới 84,6% người lớn đã từng phơi nhiễm với virút quai bị, trong khi đó chỉ có 6,9% trẻ em từ 1-3 tuổi và 26% trẻ từ 4-6 tuổi đã có kháng thể. Kết quả này cho thấy nguy cơ lây nhiễm virút quai bị trong cộng đổng dân cư là rất cao và cần thiết phải tiêm phòng vắcxin quai bị cho trẻ em để dự phòng mắc bênh cũng như các biến chứng nguy hiểm của bênh quai bị.
I. ĐẶT VẤN ĐỂ
Bênh quai bị (còn được gọi là viêm tuyến mang tai dịch tễ hay viêm tuyến mang tai do virut quai bị) là một bênh truyền nhiễm cấp tính, lây trực tiếp bằng đường hô hấp qua tiếp xúc với nước bọt của người bị nhiễm bênh. Bênh hay gây thành dịch ở trẻ em, thanh thiếu niên trong các tập thể như mẫu giáo, trường học, đơn vị tân binh. Bênh có thể diễn ra quanh năm nhưng thường thành dịch vào mùa đông và mùa xuân [10].
Hiên nay, số các trường hợp mắc bênh quai bị được xếp hàng thứ 7 trong số 24 bênh truyền nhiễm gây dịch được quản lý tại Viêt Nam, chỉ xếp sau các bênh về viêm đường hô hấp cấp, các bênh về đường ruột và sốt xuất huyết Dengue. Tỷ lê mắc trung bình trong 10 năm (1991-2000) là 20,6/100 000 dân và tỷ lê này cũng khác nhau giữa các miền trong đó miền Bắc có tỷ lê mắc cao nhất là 32,5/100 000 dân [2,3]. Bênh quai bị tuy không dẫn đến tử vong nhưng số lượng mắc bênh, thời gian điều trị, các biến chứng của bênh đã và đang trở thành vấn đề sức khoẻ, vấn đề kinh tế xã hội đáng được quan tâm. Các nghiên cứu dịch tễ học về bênh quai bị tại Viêt Nam hiên nay chủ yếu là các thông kê về tỷ lê mắc bênh và dịch, còn ít các nghiên cứu điều tra về huyết thanh học trên các cộng đổng dân cư khác nhau [1]. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá tỷ lê nhiễm virút trong một cộng đổng dân cư dựa trên các đặc điểm về độ tuổi, giới tính và địa dư sông. Các kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng trong viêc hoạch định các chiến lược về kiểm soát dịch bênh và tiêm phòng vắcxin quai bị trong tương lai.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
Đây là một nghiên cứu cắt ngang tiến hành tại cộng đổng thuộc 2 tỉnh Hưng Yên – đại diên cho các tỉnh đổng bằng Bắc Bộ và Thái Nguyên – đại diên cho các tỉnh miền núi phía Bắc của Viêt Nam. Tại mỗi tỉnh chọn ra 2 huyên hoặc thị xã có sự khác biêt về điều kiên sông và địa dư – một huyên có điều kiên kinh tế thấp, nằm xa trung tâm tỉnh lỵ, giao thông đi lại khó khăn (địa dư sông không thuận lợi) và 1 huyên hoặc thị xã có điều kiên kinh tế khá, gần đường giao thông, mật độ dân cư cao (địa dư sông thuận lợi). Trong mỗi huyên hoặc thị xã được chọn, lấy ra ngẫu nhiên 2 xã làm đại diên, mỗi xã tiến hành lấy máu cho 200 đổi tượng từ 1 tuổi đến 40 tuổi chưa đuợc tiêm phòng vắcxin quai bị. Các chỉ sô được thu thập để đánh giá về đặc điểm dinh tễ học là độ tuổi, giới tính và địa dư sông. Các mẫu huyết thanh được xét nghiêm tại phòng Công nghê cao, Công ty Vắcxin và sinh phẩm sô 1, Viên Vê sinh dịch tễ Trung ương. Bộ sinh phẩm được sử dụng trong nghiên cứu là Mumps IgG
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích