ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ ĐIỀU TRỊ NGẠT NƯỚC TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2007
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ ĐIỀU TRỊ NGẠT NƯỚC TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2007
Nguyễn Hoàng Thanh Uyên*, Bùi Quốc Thắng**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị của bệnh nhân ngạt nước tại bệnh viện Nhi Đồng 1 từ năm 2003 đến năm 2007.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả loạt ca.
Kết quả: Tuổi trung bình của trẻ ngạt nước nhập viện là 5,1 ± 4,2 tuổi. Nơi xảy ra tai nạn thường gặp nhất sông, ao hồ (71%) và vật dụng chứa nước (18%). Ngạt do vật dụng chứa nước chủ yếu xảy ra ở trẻ ≤ 3 tuổi, xảy ra ở trẻ nữ nhiều hơn trẻ nam. Trẻ ở tỉnh và ngoại thành chủ yếu xảy ra tai nạn ở sông, ao hồ tự nhiên. Có 8% trường hợp được hồi sức đúng cách. Tỉ lệ trẻ có suy hô hấp lúc nhập viện, có rối loạn tri giác, có hạ thân nhiệt, có chấn thương đi kèm lần lượt là 75%, 64%, 4% và 3%. Có 32% trường hợp đường huyết tăng ≥ 200mg%. Kết quả điều trị: hồi phục 62%, tử vong 24%, di chứng thần kinh 14%. Những trường hợp có thời gian chìm trong nước lâu, rối loạn tri giác, Glasgow thấp, mất phản xạ ánh sáng, hạ thân nhiệt, tím tái, tăng đường huyết hay pH < 7,2 thường có kết quả điều trị xấu.
Kết luận: Nơi xảy ra tai nạn thay đổi theo tuổi, giới và địa bàn cư trú. Dấu hiệu tiên lượng xấu: thời gian chìm trong nước lâu, rối loạn tri giác, Glasgow thấp, mất phản xạ ánh sáng, hạ thân nhiệt, tím tái, tăng đường huyết, pH < 7,2
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất