Đặc điểm đột biến gen rpob của một số chủng vi khuẩn lao kháng rifampicin phân lập tại Việt Nam
Vi khuẩn lao kháng rifampicin (RIF) là do có đột biến xảy ra chủ yếu ở vùng 81bp gen rpoB. Mục tiêu: xác định tần suất, đặc điểm đột biến gen rpoB ở vi khuẩn lao liên quan kháng RIF. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:40 chủng vi khuẩn lao gồm 11 chủng nhạy, 29 chủng kháng RIF. Các kỹ thuật sinh học phân tử được sử dụng như tách chiết DNA, PCR nhân đoạn gen, tách dòng gen, đọc trình tự và phân tích đột biến vùng 81bp gen rpoB. Kết quả: không phát hiện thấy đột biến vùng 81 bp của gen rpoB ở 100% các chủng vi khuẩn lao nhạy với RIF. Ởcác chủng vi khuẩn lao kháng RIF tần suất đột biến là 96,6%. Có 12 vị trí xảy ra trên vùng 81 bp gen rpoB, các vị trí hay gặp là 531 (51,7%) và 526 (31%). Phát hiện vị trí đột biến 519
(3,4%) chưa có trong các công bố trên thế giới. Có 15 kiểu đột biến, trong đó kiểu TCG531TCG chiếm tỷ lệ 50%. Kháng đa thuốc gặp ở cả các chủng đột biến và không đột biến, ở tất cả các vị trí và kiểu đột biến.
Kết luận:không phát hiện thấy đột biến gen rpoB ở các chủng vi khuẩn lao nhạy vớiRIF. Tần suất đột biến gen rpoB ở các chủng vi khuẩn lao kháng RIF là 96,6%. Phát hiện vị trí đột biến mới 519. Đột biến gen rpoB không quyết định tính kháng đa thuốc.
Vi khuẩn lao hiện đang lây nhiễm cho 1/3 dân số thế giới. WHO nhận định rằng bệnh lao đang
quay trở lại và trở nên tồi tệ hơn với đặc trưng là kháng đa thuốc của vi khuẩn lao [10]. Để công tác điều trị đạt hiệu quả cao, đồng thời kiểm soát được các chủng lao kháng thuốc thì chẩn đoán sớm mắc lao và phát hiện nhanh tính kháng thuốc của vi khuẩn lao là những yêu cầu cơ bản nhất [9].
Người ta đã xác định rằng kháng rifampicin là chỉ điểm của kháng đa thuốc. Kháng đa thuốc được định nghĩa là kháng với ít nhất đồng thời rifampicin và isoniazid. Kháng RIF có tới 95% là
đồng kháng với isoniazid. Do vậy, chỉ cần xác định chủng vi khuẩn lao kháng RIF đồng nghĩa với xác định kháng đa thuốc của chủng vi khuẩn lao đó. Tính kháng RIF có liên quan chặt chẽ với vùng hay xảy ra đột biến gồm 81 bp của gen rpoB. Gen này mã hoá các amino acid cấu tạo
nên tiểu phần ß của RNA polymerase, là men có tác dụng xúc tác tổng hợp mRNA. Bình thường
RIF bám vào tiểu phần ß và gây ức chế phiên mã di truyền. Sự đột biến ở đoạn gen rpoB làm thay đổi cấu trúc tiểu phần ß của enzym RNA polymerase và do đó làm giảm độ bám của rifampicin với enzym này. Như thế đột biến gen rpoB gây ức chế tác dụng của RIF. Và xác định
đột biến trên gen này đồng nghĩa với việc chẩn đoán vi khuẩn lao kháng rifampicin [6].
Việc ứng dụng sinh học phân tử vào chẩn đoán vi khuẩn lao kháng thuốc sẽ rút ngắn thời gian từ 2 – 4 tháng như kinh điển xuống còn khoảng 4 ngày sẽ mang lại hiệu quả rất lớn trong kiểm soát bệnh lao và cũng giúp ích cho nghiên cứu tạo ra các thuốc chống lao mới, hiệu quả hơn. Hiện nay việc ứng dụng này ở Việt Nam còn rất hạn chế. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
này với mục tiêu:
Xác định tần suất, đặc điểm của đột biến gen rpoB ở vi khuẩn lao liên quan kháng rifampicin
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích