Đặc điếm hình thái các mảnh xương sọ bảo quản tại labo bảo quản mô đại học y Hà Nội từ 2002 – 2010 liên quan giữa tình trạng mảnh xương và khả năng nhiễm khuẩn
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả các đặc điểm hình thái và tình trạng mảnh xương sọ được lấy từ những bệnh nhân mở hộp sọ giải áp được bảo quản lạnh sâu tại labo bảo quản mô Đại học y Hà Nội từ 2002 – 2010 và phân tích mối liên quan giữa tình trạng mảnh xương và khả năng nhiễm khuẩn. Có 3587 bệnh nhân được mở sọ não giải áp gửi xương sọ bảo quản lạnh sâu tại Labo Bảo quản mô – Đại học Y Hà Nội (từ tháng 2.2002 đến 12.2010). Đa số bệnh nhân có một mảnh xương gửi (81,3%), có những trường hợp có đến 9 mảnh do vỡ vụn. số lượng mảnh xương có kích thước dưới 70cm2 nhiều nhất (61,7%). Có 0,5% mảnh xương dưới 4cm2. Có 20% các mảnh xương gửi bảo quản không sạch, còn nhiều cân cơ máu tụ, tóc dính. Có sựliên quan giữa các mảnh xương không sạch và tỷ lệ nhiễm khuẩn
Mỗi năm ở nước ta có hàng chục nghìn trường hợp chấn thương sọ não, u não phải phẫu thuật mở hộp sọ giải áp. Các mảnh xương sọ lấy ra trong phẫu thuật giải áp không thể lắp lại được ngay mà phải bảo quản tạm thời chờ ghép lại cho bệnh nhân sau này nhằm khắc phục tình trạng khuyết sọ. Việc lắp lại mảnh xương không những duy trì chức năng bảo vệ não, mà còn đảm bảo tính thẩm mỹ cho bệnh nhân [1].
Trước đây, mảnh xương thường được bảo quản tạm thời bằng cách vùi dưới da bụng bệnh nhân. Biện pháp này bắt buộc bệnh nhân phải trải qua hai lần phẫu thuật: một là phẫu thuật để vùi mảnh xương ngay sau mở hộp sọ giải áp; hai là lấy mảnh xương ra để ghép lại. Quá trình phẫu thuật tuy đơn giản nhưng thường để lại sẹo xấu hoặc có thể xẩy ra biến chứng, đặc biệt là nhiễm trùng. Mảnh xương để dưới da bụng lâu ngày có thể bị ăn mòn, di chuyển, gây khó chịu cho bệnh nhân.
Cũng đã có phẫu thuật viên sử dụng các vật liệu sinh học để tạo hình vòm sọ như titan, gốm, xi măng sinh học, vật liệu tổng hợp composite [2]; hoặc sử dụng xương tự thân (xương mào chậu, sụn sườn). Thực tế cho thấy mảnh xương của chính bệnh nhân là loại vật liệu lý tưởng nhất nếu được bảo quản đúng kỹ thuật. Năm 2002, Labo Bảo quản mô – Trường Đại học Y Hà Nội đã nghiên cứu ứng dụng qui trình bảo quản lạnh sâu để bảo quản các mảnh xương sọ này. Trong 8 năm áp dụng, đã có hơn 3000 mảnh xương sọ được bảo quản, trong đó hơn 2000 mảnh đã được ghép trả lại cho bệnh nhân.
Mục tiêu xác định một số đặc điểm hình thái, tình trạng mảnh xương và mối liên quan giữa tình trạng mảnh xương và khả năng nhiễm khuẩn, Nghiên cứu đượctiến hành với mụctiêu
Mô tả các đặc điểm về hình thái, tình trạng các mảnh xương sọ tại Labo bảo quản mô – Trường Đại học Y Hà Nội từ năm 2002 – 2010.
Phân tích mối liên quan giữa tình trạng mảnh xương và khả năng nhiễm khuẩn của các mảnh xương sọ bảo quản lạnh sâu tại Labo bảo quản mô – Trường Đại học Y Hà Nội từ 2002 – 2010
II. ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đốitượng nghiêncứu
Tất cả các mảnh xương sọ được bảo quản tại Labo bảo quản mô – Trường Đại học Y Hà Nội từ tháng 2.2002 đến 12.2010
2. Phương pháp và chỉ tiêu nghiên cứu
2.1. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu mô tả hồi cứu
2.2. Biến số và chỉ số nghiên cứu
Số lượng mảnh xương trong một mẫu : Số mẫu có một mảnh xương nguyên vẹn, có
2 mảnh xương, số mẫu dập nát có từ 3 mảnh xương trở lên
Kích thước mảnh xương: rất nhỏ (dưới 4 cm2), nhỏ, trung bình, lớn, rất lớn
Tình trạng mảnh xương: sạch (không còn cân cơ, máu tụ, không dính tóc, chất bẩn), không sạch (còn nhiều cân cơ, máu tụ, dính tóc, các chất bẩn khác do vỡ khi bị chấn thương sọ não)
Mối quan hệ giữa tình trạng mảnh xương và tỷ lệ nhiễm khuẩn.
2.3. Phương pháp thu thập thông tin
Phương pháp thu thập thông tin bằng cách điền phiếu theo mẫu (phụ lục kèm theo)
2.4. Phương pháp xửlý số liệu
Các số liệu được làm sạch trước khi xử lý. Xử lý số liệu bằng phần mềm chương trình SPSS 15.0 với các test thống kê y học.
2.5. Kỹ thuật khống chế sai số
Tập huấn cho nhóm nghiên cứu cách điền thông tin trên phiếu nghiên cứu.
Đạo đức trong nghiên cứu
Do nghiên cứu của chúng tôi chỉ là thống kê các yếu tố liên quan đến mảnh xương sọ của chính các bệnh nhân gửi tại labo, không có sự can thiệp vào mẫu nghiên cứu nên vấn đề về đạo đức nghiên cứu không cần thiết phải đặt ra. Tuy nhiên các thông tin liên quan đến các bệnh nhân có mẫu nghiên cứu đều được giữ bí mật
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích