Đặc điểm kiểu gen và đột biến kháng thuốc của HBV ở bệnh nhân nhiễm HBV mạn tính chưa điều trị
Bệnh viêm gan B mạn tính hiện là một vấn đề sức khỏe toàn cầu do tỷ lệ người nhiễm cao và gây những biến chứng nguy hiểm. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, trên Thế giới có khoảng 2 tỉ người nhiễm virus viêm gan B (HBV) với 400 triệu người nhiễm mạn tính và 1 triệu người tử vong hàng năm do các biến chứng của bệnh [39], [80], [114]. Diễn tiến đến xơ gan, suy gan mất bù và ung thư tế bào gan là những biến chứng nguy hiểm nếu bệnh nhân không được điều trị.
Với sự hỗ trợ đắc lực của các kỹ thuật sinh học phân tử, các nhà khoa học trên Thế giới đã xác định được 10 kiểu gen (genotype) và các dưới kiểu gen (subgentype) của HBV [81], [112]. Các nghiên cứu gần đây trên Thế giới cho thấy có mối liên hệ giữa kiểu gen của HBV với đường lây nhiễm, diễn tiến bệnh, sự đáp ứng với điều trị và khả năng xuất hiện các loại đột biến [81], [112].
Mục đích của điều trị viêm gan B mạn tính nhằm ngăn ngừa biến chứng và giảm nguy cơ tử vong cho bệnh nhân. Hiện nay, có 2 nhóm thuốc được công nhận trong điều trị viêm gan B mạn tính là interferon (interferon-a 2a, interferon- a 2b) và các đồng phân nucleotides gồm 5 loại thuốc: Lamivudine, Adefovir, Entecavir, Telbivudine và Tenofovir [62]. Các đồng phân nucleotide có tác dụng ức chế sự tăng sinh của virus trong thời gian dài với mức độ khác nhau tùy loại thuốc, ít tác dụng phụ, làm chậm diễn tiến bệnh, cải thiện tỷ lệ sống và giảm nguy cơ biến chứng cho bệnh nhân. Tuy nhiên, khi sử dụng các thuốc kháng virus này kéo dài có thể xảy ra tình trạng kháng thuốc. Hậu quả lâm sàng của kháng thuốc là gia tăng nồng độ virus trong máu, đảo ngược mức độ cải thiện mô học, giảm tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh HBeAg [108]. Về mặt cơ chế, kháng thuốc trong điều trị viêm gan B là do đặc tính sao chép nhanh của virus, bộ gen virus thiếu cơ chế kiểm soát tính đột biến trong quá trình sao chép. Dưới áp lực chọn lọc của thuốc, các dòng virus có đột biến kháng thuốc sẽ xuất hiện và lan rộng trong quần thể virus tạo nên biểu hiện kháng thuốc [62]. Đã có rất nhiều nghiên cứu liên quan đến đột biến kháng thuốc của HBV sau một thời gian điều trị. Tỷ lệ kháng thuốc đối với các loại thuốc nói chung đều gia tăng theo thời gian điều trị [62]. Với cơ các chế lây truyền HBV trong cộng đồng và sau một thời gian các đồng phân nucleotides được đưa vào điều trị thì trong cộng đồng có khả năng sẽ xuất hiện những người bị lây nhiễm bởi những chủng virus có sẳn đặc tính kháng thuốc. Những người này một khi có chỉ định điều trị thuốc kháng virus thì khả năng thất bại điều trị do kháng thuốc là hoàn toàn có thể xảy ra. Hiện nay các hướng dẫn điều trị viêm gan B mạn tính và tiên lượng khả năng đáp ứng với điều trị đều chưa đề cập đến việc phát hiện những người mang HBV có sẳn đặc tính kháng thuốc để có chỉ định phác đồ điều trị thích hợp và đạt hiệu quả cao.
Tại Việt Nam, tỷ lệ nhiễm HBV vào khoảng 10 -20% [112], được xếp vào các quốc gia có tỷ lệ nhiễm HBV cao. Các nghiên cứu liên quan đến sự phân bố kiểu gen cũng như sự kháng thuốc của HBV ở các đối tượng bệnh nhân khác nhau như bệnh nhân đang điều trị, sau khi điều trị, bệnh nhân đã có biến chứng của nhiễm HBV đã được nhiều tác giả thực hiện. Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên ở đối tượng bệnh nhân chưa điều trị còn ít. Đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến nhiễm HBV ở các nơi trong nước, tuy nhiên vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long với dân số hơn 17 triệu người và với tỷ lệ nhiễm HBV chung của Việt Nam thì khu vực này có số người nhiễm HBVđáng kể. Mặc dù vậy, chưa có một nghiên cứu nào được thực hiện một cách đầy đủ về sự phân bố kiểu gen, dưới kiểu gen cũng như sự kháng thuốc của HBV trên người nhiễm HBV mạn tính chưa điều trị nói riêng và bệnh nhân viêm gan B nói chung ở khu vực vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài “Đặc điểm kiểu gen và đột biến kháng thuốc của HBV ở bệnh nhân nhiễm HBV mạn tính chưa điều trị ” với 2 mục tiêu sau:
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất