ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN VIÊM TỤY CẤP TẠI BỆNH VIỆN E HÀ NỘI TRONG 2 NĂM (2004 – 2005)

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN VIÊM TỤY CẤP TẠI BỆNH VIỆN E HÀ NỘI TRONG 2 NĂM (2004 – 2005)

 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN VIÊM TỤY CẤP TẠI BỆNH VIỆN E HÀ NỘI TRONG 2 NĂM (2004 – 2005)

Tóm tắt: Qua khảo sát 59 bệnh nhân viêm tuỵ cấp tại bệnh viện E (BVE) trong 2 năm (2004 – 2005), chúng tôi thấy các triệu chứng lâm sàng gặp chủ yếu là: Đau bụng (100%); nôn (91.52%); sốt (50.84%); điểm sườn lưng ấn đau (57,63%). Các triệu chứng khác bao gồm tình trạng shock, hội chứng não – tuỵ; cảm ứng phúc mạc cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể ở VTC thể nặng. Điều trị tích cực kết hợp với liệu pháp lọc máu liên tục bước đầu cải thiện được tỷ lệ tử vong.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Viêm tuỵ cấp (VTC) là một bệnh hay gặp và thường biểu hiện bằng một bệnh cảnh lâm sàng đa dạng, phức tạp: từ thể nhẹ không cần can thiệp hoặc chỉ cần nằm viện ít ngày tới những thể nặng, diễn biến cấp tính có biều hiện suy đa tạng thường phải được theo dõi tại các khoa điều trị tích cực, chi phí điều trị tốn kém và tỷ lệ tử vong có thể lên tới 50%[1], [3}, [4].
Trong thời gian gần đây, các biện pháp điều trị hỗ trợ đặc biệt là kỹ thuật lọc máu liên tục CRRT (continuous renal replacement therapy) đã được áp dụng để điều trị VTC đặc biệt là VTC thể nặng. Các nghiên cứu đã cho thấy kỹ thuật CRRT cải thiện được tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân (BN) VTC[5]. Để chuẩn bị cho việc triển khai kỹ thuật này tại bệnh viện E Hà Nội vào đầu năm 2006, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu:

Tìm hiểu các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị BN viêm tuỵ cấp tại BVE trong 2 năm ( 2004 – 2005 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment