ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CậN LÂM SÀNG LIÊN QUAN BƯớU GIÁP LAN TỏA NHiễM độC TÁi PHÁT SAU PHẫU THuậT
Từ 7 – 1999 đến 10 – 2008, 690 bệnh nhân (BN) bướu giáp lan toả nhiễm độc được chẩn đoán và điều trị ngoại khoa tại Khoa Phẫu thuật Lồng ngực, Bệnh viện 103, trong đó 595 BN phẫu thuật lần đầu và 95 BN tái phát sau phẫu thuật.
Một số yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng có liên quan đến khả năng tái phát sau phẫu thuật:
– Tỷ lệ nữ ở nhóm BN tái phát cao hơn so với nhóm mổ lần đầu (88,4% so với 73,9%) (p < 0,001).
– Tỷ lệ BN có lồi mắt ở nhóm mổ tái phát là 48,4%, cao hơn nhóm mổ lần đầu (35,8%) (p < 0,05).
– Nồng độ TSH máu trung bình trước mổ ở nhóm mổ tái phát là 1,8 ± 5,6 ụUI/ml (0,001 – 40 ụUI/ml) thấp hơn nhóm mổ lần đầu (p < 0,05). Bệnh bướu giáp lan toả nhiễm độc (BGLTNĐ) là một bệnh khá phổ biến ở nước ta cũng như trên thế giới. Tại châu Âu, tỷ lệ mắc bệnh hàng năm là 20/100.000 dân, tại Mỹ khoảng 40/100.000 dân.
Điều trị ngoại khoa hiện nay có nhiều ưu điểm: thời gian điều trị ngắn, tỷ lệ khỏi bệnh cao và bền vững, hiệu quả kinh tế cao, áp dụng được cho những trường hợp điều trị nội khoa không ổn định hoặc không thể sử
dụng thuốc kháng giáp tổng hợp hoặc iod phóng xạ. Tuy nhiên, điều trị ngoại khoa vẫn còn có một số biến chứng, hiện nay biến chứng tái phát chiếm một tỷ lệ nhất định. Việc nghiên cứu tìm ra các yếu tố tiên lượng để dự phòng và kiểm soát biến chứng này vẫn đang được nhiều phẫu thuật viên trên thế giới quan tâm. Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu: Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng có liên quan bướu giáp lan toả nhiễm độc tái phát sau phẫu thuật.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất