Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và hiệu quả của Curosurf điều trị bệnh màng trong ở trẻ đẻ non tại bệnh viện Trẻ em Hải Phòng
Luận văn thạc sĩ y học Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và hiệu quả của Curosurf điều trị bệnh màng trong ở trẻ đẻ non tại bệnh viện Trẻ em Hải Phòng/ Phạm Thị Ngọc 2014.Suy hô hấp (SHH) là một trong những cấp cứu thường gặp nhất trong giai đọan sơ sinh đặc biệt là trẻ sơ sinh thiếu tháng. Nhìn chung, khoảng 60% trẻ sinh non có tuổi thai < 30 tuần bị suy hô hấp [5]. Nguyên nhân gây SHH rất nhiều và thường khó giải quyết. Bệnh màng trong (BMT) là một bệnh thường gặp nhất của hội chứng SHH ở trẻ non tháng mà nguyên nhân đã được biết rõ là do không đủ chất surfactant- một chất được cơ thể thai nhi sản xuất chủ yếu vào khoảng tuần thứ 34- 37 của thai kỳ[1]. Tại Mỹ, người ta ước tính hằng năm có khoảng 40000 trẻ sơ sinh mắc bệnh, chiếm 1% tổng số trẻ sinh ra, trong đó có tới 50% là trẻ có tuổi thai dưới 28 tuần [53],[4].
Bệnh thường xuất hiện trong những giờ đầu tiên sau đẻ với những biểu hiện của hội chứng SHH cấp. Tổn thương phổi trên phim chụp X_Quang giúp chúng ta chẩn đoán xác định và phân loại BMT thành 4 giai đoạn [2],[21]. Bệnh thường tiến triển nặng lên trong vòng 24 giờ và có thể gây tử vong cho trẻ nếu không được điều trị cấp cứu kịp thời [2] Trước đây do những hạn chế trong việc điều trị nên tỷ lệ tử vong do bệnh còn khá cao, chiếm tới 20% tử vong chung của trẻ sơ sinh và trong số những trẻ sống sót có tới 20% có những di chứng như loạn sản phế quản phổi, xuất huyết não màng não [5]. Trong những thập kỷ gần đây nhờ những tiến bộ của y học được áp dụng trong việc phòng cũng như điều trị BMT đã làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc và mức độ nặng của bệnh, mở ra một bức tranh tươi sáng cho những trẻ sơ sinh mắc bệnh này. Bơm surfactant và thở máy là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực này. Việc sử dụng surfactant trong việc điều trị BMT đã được nghiên cứu và áp dụng thành công lần đầu tiên bởi tác giả Fujiwara người Nhật Bản năm 1980 với chế phẩm surfactant chiết xuất từ phổi bò [36]. Và từ đó đến nay, qua nhiều nghiên cứu và thử nghiệm đã sản xuất ra nhều loại chế phẩm Surfactant khác nhau, tự nhiên cũng như tổng hợp có tính an toàn và hiệu quả cao, đã được khuyến cáo và áp dụng điều trị ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, BMT cũng là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây SHH ở trẻ sơ sinh, tỷ lệ tử vong do bệnh còn khá cao. Chế phẩm surfactant có giá thành cao và cần kết hợp nhiều trang thiết bị hiện đại trong quá trình điều trị nên việc áp dụng trong điều trị BMT mới được tiến hành trong vài năm gần đây. Một số nghiên cứu gần đây về hiệu quả sử dụng surfactant điều trị bệnh tại các bệnh viện ở Việt Nam như Bệnh viện Nhi Trung Ương, Bệnh viện Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh, bệnh viện Nhi Đồng 1, Bệnh viện Nhi Đồng Nai… cho kết quả khả quan [9],[10],[12]. Tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng, hằng năm tỷ lệ tử vong sơ sinh luôn chiếm hàng đầu trong tỷ lệ tử vong chung của bệnh viện. Một trong những nhóm bệnh chiếm tỷ lệ tử vong cao nhất là SHH ở trẻ đẻ non do thiếu surfactant. Bệnh viện đã áp dụng điều trị surfactant cùng các trang thiết bị hiện đại để điều trị những bệnh nhân trên, nhưng chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả của điều trị này. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm hai mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh màng trong ở trẻ đẻ non tại khoa HSCC Bệnh viện trẻ em Hải Phòng từ tháng 10/ 2013 đến tháng 9/2014
2. Đánh giá hiệu quả của surfactant trong điều trị bệnh màng trong ở những bệnh nhân trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Nguyễn Văn Bàng (2010) : ”Một số đặc điểm về sinh lý hô hấp trẻ sơ sinh”. Điều trị và chăm sóc sơ sinh, Nhà xuất bản y học: tr. 33- 44.
2. Bộ môn Nhi trƣờng Đại học Y Hà Nội (2001): ”Hội chứng suy hô hấp cấp ở trẻ sơ sinh”. Bài giảng Nhi khoa tập 1, Nhà xuất bản Y học Hà Nội : tr. 155- 170.
3. Bộ môn Sinh lý học (2001): ”Sinh lý hô hấp”. Sinh lý học, Nhà xuất bản Y học Hà Nội : tr. 275- 323.
4. Dern R. Hess, Robert M.K.(2009): “Những vấn đề cơ bản trong thông khí nhân tạo”. Nhà xuất bản y học.
5. Nguyễn Tiến Dũng (2010):”Suy hô hấp ở trẻ sơ sinh”. Điều trị và chăm sóc sơ sinh, Nhà xuất bản y học: tr.62-77
6. Võ Công Đồng (2004): “Bơm surfactant qua nội khí quản”. Sơ sinh: bệnh lý, thủ thuật, Nhà xuất bản y học: tr 266-269.
7. Nguyễn Trọng Hiếu (2005): ”Liệu pháp surfactant thay thế trong dựphòng và điều trị hội chứng suy hô hấp ở trẻ so sinh thiếu tháng”. Thời sự Y Dƣợc học bộ X, số 3, tr. 132- 134.
8. Đặng PhƣơngKiệt (2001): ”Bệnh màng trong”. Hồi sức cấp cứu và gây mê trẻ em, tập 2, Nhà xuất bản Y học Hà Nội : tr. 19- 33.
9. Hoàng Thị Thanh Mai (2006): ”Bƣớc đầu đánh giá hiệu quả của surfactant điều trị bệnh màng trong ở trẻ đẻ non tại khoa sơ sinh bệnh viện Nhi Trung ƣơng”. Luận văn tốt nghiệp bác sỹ nội trú, Trƣờng Đại Học Y Hà Nội.
10. Phạm Nguyễn Tố Nhƣ, Lâm Thị Mỹ (2010): ”Mô tả kết quả điều trịbệnh màng trong ở trẻ sanh non bằng Surfactant qua kỹ thuật INSURE”. Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, số 14, tr. 155- 161. 65
11. Lê Phúc Phát (1997): ”Bệnh màng trong- nhận xét qua 159 trƣờng hợp tại khoa Giải phẫu bệnh bệnh viện BVSKTE”. Kỷ yếu công trình nghien cứu khoa học viện BVSKTE, tr. 63- 66.
12. Trần Thị Bích Phƣợng (2012): ”Đánh giá hiệu quả điều trị surfactant trong điều trị bệnh màng trong ở trẻ sinh non tại khoa hồi sức cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng Nai”. Đề tài nghiên cứu khoa học và nhân văn cấp tỉnh năm 2012
13. Trần Quy (2002): ”Suy hô hấp cấp tính ở trẻ em”. Tài liệu tập huấn chuyên ngành Nhi khoa, Hà Nội, tr. 251- 269.
14. Vũ Hữu Quyền (2009): ”Đánh giá hiệu quả thở áp lực dƣơng liên tục qua đƣờng mũi trong điều trị suy hô hấp cấp ở trẻ sinh non”. Luận văn thạc sỹ y học, trƣờng Đại học y Hải Phòng
15. Nguyễn Văn Tuấn (2003): ”Nhận xét đặc điểm giải phẫu và lâm sàng bệnh màng trong”. Luận văn tốt nghiệp cao học, trƣờng Đại học y Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Gia Khánh, Lê Phúc Phát (2002): ”Nhận xét đặc điểm lâm sàng bệnh màng trong”. Hội nghị Nhi khoa Việt Nam, tr. 135- 142.
17. Trần Duy Vĩnh, Nguyễn Tấn Viên (2007): ”Một số nhận xét về đặc điểm lâm sàng của suy hô hấp do bệnh màng trong”. Hội nghị Nhi khoa miền Trung lần thứ 7, tr. 684- 691.