Đặc điểm lâm sàng của bỏng mắt do kiềm và kết quả điều trị phối hợp tra thuốc có Steroid
Bỏng mắt gây ra do kiềm là một tổn thương nặng của mắt. Chất kiềm gây tổn hại kết mạc, giác mạc, viêm loét dai dẳng, tiêu nhu mô dẫn đến thủng giác mạc, làm giảm thị lực. Khi mắt bị bỏng kiềm nặng sẽ phá hủy các cấu trúc của nhãn cầu, có khi phải khoét bỏ mắt. Bỏng kiềm thường có tiên lượng xấu do chất kiềm gây xà phòng hóa các màng tế bào dẫn đến thấm xuyên sâu vào các lớp của giác mạc, vào trong tiền phòng và vào nội nhãn.
Trên thế giới đã có nhiều phương pháp điều trị bỏng mắt, gần đây thuốc có Steroid đã được áp dụng trong điều trị bỏng kiềm cho kết quả khả quan hơn. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu về sử dụng Steroid tra mắt điều trị, bỏng kiềm, vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng của bỏng mắt do kiềm.
2. Đánh giá kết quả điều trị lâm sàng của bỏng kiềm có phối hợp với thuốc tra mắt có Steroid.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân bị bỏng mắt do kiềm được điều trị có phối hợp với thuốc tra mắt có corticoid tại khoa Chấn thương bệnh viện Mắt trung ương từ tháng 1/2007 đến tháng 12/2007. Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân bỏng mắt do a xit, do nhiệt, do bức xạ… bệnh nhân không được điều trị phối hợp với thuốc tra mắt có corticoid.
2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu tiến cứu, không có đối chứng, sử dụng bệnh án nghiên cứu trong theo dõi bệnh nhân.
Phân loại đánh giá bỏng kết giác mạc theo phân loại bỏng của Roper Hall Hughes gồm 4 độ:
Độ I: tổn hại biểu mô giác mạc, không thiếu máu kết mạc. Độ II: giác mạc đục mờ, nhìn rõ mống mắt, thiếu máu < 1/3 vùng rìa. Độ III: Mất toàn bộ nhu mô giác mạc, đục nhu mô giác mạc, không trông rõ mống mắt, thiếu máu từ 1/3 vùng rìa đến 1/2 vùng rìa. Độ IV: Giác mạc đục trắng toàn bộ, thiếu máu > 1/2 vùng rìa. Để tiện việc đáng giá, chúng tôi phân theo 2 mức độ bỏng: Bỏng nhẹ: độ I và II, bỏng nặng: độ III và IV.
Phương pháp điều trị bỏng
– Khi bệnh nhân đến khám: lấy hết dị vật, vôi nếu ở trong mắt, chú ý lật và bộc lộ 2 cùng đồ trên và dưới – tại đây hay có dị vật. Rửa mắt với nước muối sinh lý kéo dài tới 30 phút. Bơm rửa lệ đạo, khi có bỏng nặng độ 4: có thể chuyển lọc rửa tiền phòng cấp cứu, cắt kết mạc hoại tử, rạch kết mạc quanh rìa.
– Điều trị tiếp theo: rửa mắt hàng ngày bằng nước muối 0,9%. Tra thuốc Maxitrol, CB2: 6 – 10 lần/ngày tra giảm dần liều cho đến khi khỏi viêm, dung dịch Oflovid 4 lần/ ngày, Cloroxit 0,4% 4 lần/ngày, Salein 3 – 4 lần/ngày, Atropin 1% 3 lần/ ngày, nước muối 5% – 3 lần/ngày, mỡ Tetrailin 1%
2 lần/ngày. Uống vitamin C 1,0 g/ngày, thuốc chống viêm Prednisolon 5 mg – 1 mg/ngày, thuốc kháng sinh toàn thân: Zinat 0,25 g – 10 mg/kg/ ngày. Mắt bỏng nặng: có thể kết hợp tiêm huyết thanh tự thân dưới kết mạc 1 ml. Tách dính mi cầu với thuốc mỡ kháng sinh cho những trường hợp bỏng nặng.
– Điều trị hạ nhãn áp (nếu có tăng nhãn áp) hoặc khi có loét giác mạc dọa thủng: Acetazolamid 0,25 g x 2 viên/ngày. Thuốc giảm đau: Paracetamol 0,5 g x 1 viên/ngày.
2.4. Đánh giá kết quả: thời gian theo dõi 6 tháng
– Đánh giá thị lực: Dựa vào phân loại thị lực của Ryan S.J và cộng sự [6], chúng tôi chia thị lực ra làm 3 mức độ: Thị lực tốt: từ 0,5 trở lên (≥ 0,5). Thị lực trung bình: từ 0,5 đến đếm ngón tay 1m (0,02 – < 0.5). Thị lực xấu: đếm ngón tay từ 1m trở xuống (< 0,02)
– Đánh giá thời gian biểu mô hóa của giác mạc. Ngày điều trị trung bình. Biến chứng của bỏng kiềm.
– Phương pháp xử lý số liệu. Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê y học bằng chương trình SPSS 10.05. Kiểm định sự khác biệt giữa các tỷ lệ bằng thuật toán ÷2.
Mục tiêu: mô tả đặc điểm lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị của bỏng mắt do kiềm phối hợp tra thuốc có Steroid. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu trên 35 bệnh nhân (45 mắt) bị bỏng do kiềm được điều trị phẫu thuật tại Khoa Chấn thương, bệnh viện Mắt TW từ tháng 1/ 2007 đến tháng 12/ 2007, tất cả các bệnh nhân đều được tra thuốc có steroid và Vitamin C tích cực. Kết quả: 19 mắt bỏng nhẹ, 26 mắt bỏng nặng. Thị lực khi vào viện Thị lực xấu: 46,5%, thị lực tốt: 2,3%. Thị lực sau điều trị: thị lực tốt: 32,5%. Mắt bỏng nhẹ đạt thị lực tốt: 82,4%. Không có mắt nào bỏng nặng đạt được thị lực tốt. Di chứng gặp nhiều nhất là sẹo giác mạc: 42,2%. Không mắt nào bị thủng giác mạc. Kết luận: điều trị bỏng mắt do kiềm với thuốc tra có Steroid và Vitamin C không gây thủng giác mạc
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích