ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ HÌNH ẢNH X QUANG THƯỜNG QUI Ở BỆNH NHÂN THỦNG TẠNG RỖNG ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ HÌNH ẢNH X QUANG THƯỜNG QUI Ở BỆNH NHÂN THỦNG TẠNG RỖNG ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ

 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ HÌNH ẢNH X QUANG THƯỜNG QUI Ở BỆNH NHÂN THỦNG TẠNG RỖNG ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ

NGUYỄN THỊ MAI SƯƠNG, LÂM ĐÔNG PHONG
Trường Đại học Y dược Cần Thơ
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và hình ảnh X quang thường qui trên 68 bệnh nhân (BN) được chẩn đoán nghi ngờ thủng tạng rỗng (TTR) nhập viện Bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ (BVĐKTƯCT), chúng tôi thu được các kết quả sau: Đa số BN nhập viện trước 6 giờ (52,5%), tỷ lệ TTR ở nam/nữ là 2/1, đa số nằm trong độ tuổi lao động (18-60 tuổi, chiếm 70,5%), 77,1% thuộc nhóm lao động chân tay, phần lớn BN sống ở nông thôn (73,6%). Về lâm sàng, các
dấu hiệu cơ năng thường gặp là đau bụng đột ngột, dữ dội thượng vị (78,7%), nôn, buồn nôn (73,8%). Các dấu hiệu thực thể thường gặp là sốt (40,9%), mạch
nhanh (18,1%), bụng chướng (88,5%), mất vùng đục trước gan (72,1%). Thủng dạ dày- tá tràng không do chấn thương bụng chiếm tỷ lệ cao nhất (78,4%).
Th ủng ruột non thường gặp trong chấn thương bụng kín (80%). Về hình ảnh X quang (XQ) thường qui: Đa số bệnh nhân được chụp XQ thường qui trước 6 giờ (49,2%). Tỷ lệ liềm khí dưới cơ hoành trên phim XQ thường qui là 86,9%. Liềm khí dưới cơ hoành trên phim XQ thường qui xuất hiện nhiều ở bên phải hoặc hai bên, ít khi đơn độc bên trái.
Những bệnh nhân có đau đột ngột, dữ dội thượng vị; nôn, buồn nôn thì khả năng có liềm khí dưới cơ hoành trên phim XQ thường qui khá cao với tỷ lệ lần
lượt là 93,8% và 91,1%. Kết quả tương tự ở những bệnh nhân khám thấy mất vùng đục trước gan và bụng gồng cứng như gổ với tỷ lệ liềm khí dưới cơ hoành lần lượt là 95,5% và 92,3%
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tôn Thất Bách (2005), “Thủng dạ dày – tá tràng”, Ngoại khoa bổ túc sau đại học, tập 1, NXB Đại học Y Hà Nội, tr 109 – 114.
2. Nguyễn Tấn Cường, Bùi Văn Ninh và cộng sự (2004), “Tổng kết kinh nghiệm xử trí 169 chấn thương và vết thương tá tràng trong 25 năm tại bệnh viện Chợ Rẫy”, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, Số 8, tr. 14 – 31.
3. Đặng Việt Dũng và cộng sự (2011), “Nghiên cứu chẩn đoán và đánh giá kết quả điều trị tổn thương tạng
rỗng trong chấn thương bụng kín tại bệnh viện 103”, Tạp chí Ngoại khoa, Số 111, tr. 11 – 18.
4. Nguyễn Đình Hối (1998), “Thủng dạ dày – tá tràng”, Bài giảng điều trị học ngoại khoa, NXB Đại học Y Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 167 – 181.
5. Phạm Văn Năng (1993), “Báo cáo khảo sát thủng dạ dày – tá tràng tại Cần Thơ”, Tuyển tập công trình khoa học công nghệ Đại học Cần Thơ 1993 – 1997, Số 8, tr. 15 – 19.
6. Hồ Hữu Thiện và cộng sự (2006), “Xu hướng phẫu thuật thủng ổ loét dạ dày – tá tràng hiện nay tại bệnh viện Trung Ương Huế (1-2004 đến 4-2006)”, Hội nghị khoa học Đại Học Y Dược Huế, Số 6, tr. 79 – 90.
7. Đỗ Đức Vân (1990), “Kết quả điều trị phẫu thuật ổ loét dạ dày – tá tràng trong cấp cứu tại bệnh viện Việt Đức”, Ngoại khoa, Số 9, tr. 32 – 39.
8. Eugene J. Keeffe, Raymond A. Gagliardi (2008), “Significance of ileus in perforated viscus”, The Department of Radiology, Vol 117, No 2, pp 275 – 280
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment