ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, X QUANG VÀ GIẢI PHẪU BỆNH CỦA BƯỚU NGUYÊN BÀO MEN DẠNG ĐẶC VÀ DẠNG NANG
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, X QUANG VÀ GIẢI PHẪU BỆNH CỦA BƯỚU NGUYÊN BÀO MEN DẠNG ĐẶC VÀ DẠNG NANG
Đỗ Thị Thảo(1), Ngô Quốc Đạt(2), Nguyễn Thị Hồng(2)
TÓM TẮT :
Mở đầu: Bướu nguyên bào men (BNBM) dạng nang thường điều trị chỉ cần lấy bướu, trong khi BNBM dạng đặc phải cắt rộng. Vì vậy, cần chẩn đoán thể loại BNBM để quyết định cách thức điều trị.
Mục tiêu: So sánh các đặc điểm lâm sàng-bệnh học của BNBM dạng đặc với BNBM dạng nang.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, mô tả và phân tích các đặc điểm lâm sàng, X quang và giải phẫu bệnh của 33 trường hợp BNBM điều trị tại Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương năm 2008 và 2009.
Kết quả: Có 19 BNBM dạng đặc (57,6%) and 14 BNBM dạng nang (42,4%) ở xương hàm dưới, nhất là vùng răng sau (100% bướu dạng nang và 78,9% bướu dạng đặc). Sưng là triệu chứng lâm sàng phổ biến nhất (100%). Loét và đau chỉ gặp trong bướu dạng đặc. Bướu dạng nang chủ yếu ở người trẻ dưới 20 tuổi (57,1%) và không gặp trên 40 tuổi; ngược lại bướu dạng đặc thường ở người trên 40 tuổi (52,6%) và không gặp dưới 20 tuổi (P < 0,001). Hình ảnh thấu quang dạng nhiều hốc phổ biến trong bướu dạng đặc (89,5%) và dạng nang (78,6%). Tiêu ngót chân răng chiếm 63,6%. Răng ngầm thường hiện diện trong bướu dạng nang (42,9%) nhưng ít có trong bướu dạng đặc (5,3%) (P < 0,05). Về mô bệnh học, dạng túi tuyến phổ biến hơn dạng đám rối. Mặt khác, khảo sát vỏ bao nang của BNBM dạng nang cho thấy 85,7% có dạng trong vách và 14,3% dạng trong ống.
Kết luận: BNBM chủ yếu ở vùng sau của xương hàm dưới, hủy xương rộng, thường biểu hiện thấu quang nhiều hốc và tiêu ngót chân răng, có dạng túi tuyến hay đám rối. Bướu dạng nang thường ở người trẻ tuổi hơn, có tỉ lệ dạng một hốc cao hơn, và thường có răng ngầm trong bướu hơn bướu dạng đặc. Nên sinh thiết để chẩn đoán trước mổ chính xác, nhất là ở người trẻ.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất