Đặc điểm mô bệnh học bệnh viêm đại tràng loét
Sinh thiết đại trực tràng nhiều mảnh hiện nay được sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán bệnh của đường tiêu hóa, tuy nhiên, vẫn còn ít nghiên cứu về mô bệnh học bệnh ruột viêm (IBD). Hơn nữa, các tiêu chuẫn hình thái học của bệnh vẫn còn được bàn luận. Mục tiêu: xác định đặc điểm mô bệnh học bệnh viêm đạ i tràng loét (UC) theo tiêu chuẫn mô học Nottingham năm 2000 về bệnh ruột viêm (IBD). Kết quả: 68 trường h ợp viêm đại tràng loét (UC) gồm 298 mảnh sinh thiết niêm mạc đại trực tràng đã cho thấy các tổn thương mô học thường gặp gồm teo niêm mạc (68/68), xoắn vặn và chia nhánh khe tuyến (66/68), dải lympho – tương bào nằm ở đáy khe tuyến (68/68), viêm nông lan tỏa (60/68), viêm xuyên niêm mạc (52/68).
Về độ hoạt động của viêm với 5 (7,3%) ca độ 1; 8 (11,8%) ca độ 2; 6 (8,8%) ca độ 3; 2 (2,9%) ca độ 4; 2 (2,9%) ca độ 5; 1 (1,4%) ca độ 6 và 1 (1,6%) ca độ 7. Các ca còn lại (43 (63,2%) ca) không có bạch cầu đa nhân trung tính ở niêm mạc. Kết luận: Các tiêu chuẫn hình thái học Nottingham (2000) về bệnh ruột viêm có thể cho phép phân biệt được bệnh viêm đại tràng loét
Theo Tổ chức quốc tế về bệnh viêm đại tràng và bệnh Crohn [7], viêm đại tràng loét (UC: ulcerative colitis) là bệnh viêm mạn tính của niêm mạc đại tràng, chưa rõ nguyên nhân, với mức độ tổn thương và lan rộng khác nhau, thường có những đợt thuyên giảm và tái phát. Cho đến nay, vẫn chưa biết nguyên nhân gây bệnh và đồng thời, viêm đại tràng loét (UC) là một trong những bệnh phức tạp, khó điều trị nhất của y học hiện đại. Trong khoảng thời gian khá dài trước đây đã xuất hiện nhiều thuật ngữ được sử dụng để chẩn đoán bệnh đại tràng viêm. Điều đó phản ảnh thực chất viêm đại tràng là bệnh lý rất phức tạp, nhưng góp phần không nhỏ vào sự phức tạp này là các thuật ngữ không thống nhất giữa các nhà bệnh học và nhà lâm sàng được sử dụng trong chẩn đoán và trong một số trường hợp đã gây hiểu lầm không đáng có. Các thuật ngữ như “viêm đại tràng vi thể”, “viêm đại tràng không xác định” và “viêm đại tràng không đặc hiệu” là những thuật ngữ thường được sử dụng nhất nhưng luôn là những chẩn đoán không rõ ràng, khó hiểu đối với nhà lâm sàng. Để góp phần khắc phục tình trạng này, nhiều hội nghị quốc tế đã được nhóm họp nhằm thống nhất tiêu chuẩn lâm sàng, nội soi, mô bệnh học cũng như tên gọi của bệnh. Hội nghị quốc tế Nottingham năm 2000 [1] do các nhà mô bệnh học được tổ chức với mục tiêu này. Các tiêu chuẩn mô học cho bệnh ruột viêm mạn tính là nghị sự quan trọng nhất của hội nghị đã được bàn bạc và nhận được sự thống nhất cao của nhiều chuyên gia mô bệnh học tiêu hóa và kể từ đó, nhiều nghiên cứu về bệnh ruột viêm mạn trên khắp thế giới đã sử dụng tiêu chuẩn Notting- ham trong chẩn đoán. Hội nghị đã thống nhất lại bệnh ruột viêm (IBD: inflammatory bowel disease) là thuật ngữ dành cho nhóm bệnh viêm mạn tính của đường tiêu hóa chưa rõ nguyên nhân, với 3 bệnh: viêm đại tràng loét (UC), bệnh Crohn (CD: Crohn disease) và viêm đại tràng chưa xếp loại (một số tác giả vẫn dùng thuật ngữ “viêm đại tràng không xác định” (IC: indeterminate colitis). Viêm đại tràng chưa xếp loại gồm các trường hợp chưa thể phân định là viêm đại tràng loét hoặc bệnh Crohn nhưng vẫn mang đủ tiêu chuẩn mô học của nhóm bệnh ruột viêm mạn chưa rõ nguyên nhân này. Như vậy, một số bệnh viêm mạn tính khác của ruột không được xếp vào nhóm bệnh này, như viêm đại tràng lympho, viêm đại tràng chollagen, viêm đại tràng chảy máu, viêm đại tràng do lao, viêm đại tràng do amip,…
Hiện nay, theo nghiên cứu của nhiều tác giả, bệnh ruột viêm mạn, trong đó có viêm đại tràng loét (UC), ngày càng phổ biến, đặc biệt ở các nước phát triển. Tuy nhiên, bệnh cũng đang gia tăng mạnh ở một số quốc gia châu Á, châu Phi và Nam Mỹ [6].
Tại Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu đã thông báo về lĩnh vực lâm sàng và nội soi của viêm đại tràng loét (UC), trong khi đánh giá tổn thương mô bệnh học theo tiêu chuẩn Nottingham 2000 vẫn chưa có tài liệu nào trong nước đề cập tới, một phần do chưa cập nhật về tổn thương mô bệnh học, phần khác do bệnh nhân đã được điều trị khá lâu (tự điều trị hoặc được điều trị ở các tuyến cơ sở) trước khi được làm sinh thiết niêm mạc đại tràng. Nhiều xáo trộn về cấu trúc mô học của niêm mạc do điều trị đã gây không ít khó khăn cho nhà giải phẫu bệnh. Với những lý do nêu trên, nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu: mô tả đặc điểm mô bệnh học bệnh viêm đại tràng loét (UC) theo tiêu chuẩn Nottingham năm 2000.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích