ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC BỆNH VIÊM ĐẠI TRÀNG LOÉT

ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC BỆNH VIÊM ĐẠI TRÀNG LOÉT

Theo Tổ chức quốc tế về bệnh viêm đại tràng và bệnh Crohn [7], viêm đại tràng loét (UC: ulcerative colitis) là bệnh viêm mạn tính của  niêm  mạc  đại  tràng,  chưa  rõ  nguyên nhân, với mức độ tổn thương và lan rộng khác nhau, thường có những đợt thuyên giảm và tái phát. Cho đến nay, vẫn chưa biết nguyên nhân gây bệnh và đồng thời, viêm đại tràng loét (UC) là một trong những bệnh phức tạp, khó điều trị nhất của y học hiện đại. Trong khoảng thời gian khá dài trước đây đã xuất hiện nhiều thuật ngữ được sử dụng để chẩn đoán bệnh đại tràng viêm. Điều đó phản ảnh thực chất viêm đại tràng là bệnh lý rất phức tạp, nhưng góp phần không nhỏ vào sự phức tạp này là các thuật ngữ không thống nhất giữa các nhà bệnh học và nhà lâm sàng được sử dụng trong chẩn đoán và trong một số trường hợp đã gây hiểu lầm không đáng có. Các thuật  ngữ như “viêm  đại tràng vi thể”, “viêm đại tràng không xác định” và “viêm đại tràng không đặc hiệu” là những thuật ngữ thường được sử dụng nhất nhưng luôn là những chẩn đoán không rõ ràng, khó hiểu đối với nhà lâm sàng. Để góp phần khắc phục tình trạng này, nhiều hội nghị quốc tế đã được nhóm họp nhằm thống nhất tiêu chuẩn lâm sàng, nội soi, mô bệnh học cũng như tên gọi của bệnh. Hội nghị quốc tế Nottingham năm 2000 [1] do các nhà mô bệnh học được tổ chức với mục tiêu này. Các tiêu chuẩn mô học cho bệnh ruột viêm mạn tính là nghị sự quan trọng nhất của hội nghị đã được bàn bạc và nhận được sự thống nhất cao của nhiều chuyên gia mô bệnh học tiêu hóa và kể từ đó, nhiều nghiên cứu về bệnh ruột viêm mạn trên khắp thế giới đã sử dụng tiêu chuẩn Notting- ham trong chẩn đoán. Hội nghị đã thống nhất lại  bệnh  ruột  viêm  (IBD: inflammatory bowel disease) là thuật ngữ dành cho nhóm bệnh viêm mạn tính của đường tiêu hóa chưa rõ nguyên nhân, với 3 bệnh: viêm đại tràng loét (UC),  bệnh  Crohn  (CD:  Crohn  disease)  và viêm đại tràng chưa xếp loại (một số tác giả vẫn dùng thuật ngữ “viêm đại tràng không xác định” (IC: indeterminate colitis). Viêm đại tràng chưa xếp loại gồm các trường hợp chưa thể phân định là viêm đại tràng loét hoặc bệnh Crohn nhưng vẫn mang đủ tiêu chuẩn mô học của  nhóm  bệnh  ruột  viêm  mạn  chưa  rõ nguyên nhân này. Như vậy, một số bệnh viêm mạn tính khác của ruột không được xếp vào nhóm bệnh này, như viêm đại tràng lympho, viêm đại tràng chollagen, viêm đại tràng chảy máu, viêm đại tràng do lao, viêm đại tràng do amip,…

Hiện nay, theo nghiên cứu của nhiều tác giả, bệnh ruột viêm mạn, trong đó có viêm đại tràng loét (UC), ngày càng phổ biến, đặc biệt ở các nước phát triển. Tuy nhiên, bệnh cũng đang gia tăng mạnh ở một số quốc gia châu Á, châu Phi và Nam Mỹ [6].

Tại Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu đã thông báo về lĩnh vực lâm sàng và nội soi của viêm đại tràng loét (UC), trong khi đánh giá tổn thương mô bệnh học theo tiêu chuẩn Nottingham  2000  vẫn  chưa  có  tài  liệu  nào trong nước đề cập tới, một phần do chưa cập nhật về tổn thương mô bệnh học, phần khác do bệnh nhân đã được điều trị khá lâu (tự điều trị hoặc được điều trị ở các tuyến cơ sở) trước khi được làm sinh thiết niêm mạc đại tràng. Nhiều xáo trộn về cấu trúc mô học của niêm mạc do điều trị đã gây không ít khó khăn cho nhà giải phẫu bệnh. Với những lý do nêu trên, nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu: mô tả đặc điểm mô bệnh học bệnh viêm đại tràng loét (UC) theo tiêu chuẩn Nottingham năm 2000.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1)Đối tượng
68 trường hợp viêm đại tràng loét (UC) được nghiên cứu theo tiêu chuẩn Nottingham 2000. Các mẫu bệnh phẩm sinh thiết được thu thập tại bộ môn Giải phẫu bệnh Trường Đại học Y Hà Nội từ 3/2008 – 3/2010.
2. Phương pháp: Mô tả cắt ngang
Cách chọn mẫu

Các trường hợp được đưa vào nghiên cứu phải  đáp  ứng  tiêu  chuẩn mô  học viêm  đại tràng loét (UC) theo tiêu chuẩn Nottingham 2000. Loại các mẫu sinh thiết ở bệnh nhân dưới 18 tuổi.

Nội dung nghiên cứu
– Mẫu sinh thiết niêm mạc đại tràng gồm 298 mảnh (quy ước mỗi bệnh nhân sinh thiết ít nhất 4 mảnh) được cố định trong dung dịch formol 10% ngay sau khi được bấm sinh thiết và được chuyển đúc trong ngày hôm sau. Sử dụng kỹ thuật vi thể thông thường: (H.E, PAS) để đánh giá tổn thương.
Đánh giá kết quả: Sử dụng kính hiển vi quang học Nikon ở độ phóng đại khác  nhau (40, 100 và 200 lần) để quan sát tổn thương. Tiêu  chuẩn  đánh  giá:  dựa  vào  tiêu  chuẩn Nottingham năm 2000 về bệnh ruột viêm mạn(chronic inflammatory bowel disease):

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment