ĐẶC ĐIỂM MÔ HỌC VÙNG MÔ KHÔNG U TRONG CARCINÔM TẾ BÀO GAN
ĐẶC ĐIỂM MÔ HỌC VÙNG MÔ KHÔNG U TRONG CARCINÔM TẾ BÀO GAN
Nguyễn Thanh Hải , Lê Minh Huy , Âu Nguyệt Diệu
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ các mức độ viêm gan và mối liên quan với tình trạng bệnh nhân nhiễm HBV, HCV.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang khảo sát ảnh hưởng của chỉ số hoạt tính mô học của vùng mô không bướu ở 273 bệnh nhân cắt gan điêu trị carcinôm tế bào gan ở Bệnh viện Trường Đại học Y Dược HCM từ 1/5/2004 đến 31/5/2010.
Kết quả: Trong số bệnh nhân Carcinôm tế bào gan khảo sát tỉ lệ nam:nữ=3,7:1, tuổi trung bình là 55 tuổi. Dựa trên chỉ số hoạt tính mô học, bệnh nhân được chia làm 4 nhóm: Viêm gan mức độ tối thiểu chiếm 10,99% (30/273) (với điểm số hoạt tính mô học = 1-4); viêm gan mức độ nhẹ 28,94% (79/273) (với điểm số hoạt tính mô học = 5-8); viêm gan mức độ vừa 56,41% (154/273) (với điểm số hoạt tính mô học = 9-12); viêm gan mức độ nặng 3,66% (10/273) (vớiđiểm số hoạttính mô học= 13-18). Liên quangiữachỉsố hoạttính môhọcvới bệnh
nhân nhiễm HBV, HCV.
Kết luận: Nghiên cứu này cho thây chỉ số hoạt tính mô học ở vùng mô không bướu có liên quan với bệnh nhân viêm gan mức độ vừa nhiễm HBV, HCV, mối liên quan này có ý nghĩa thống kê.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư gan đứng hàng thứ 8 trên thế giới, đứng hàng thứ 7 ở các nước đang phát triển. Xuất độ cao ở nhiều vùng của Trung Quốc, Đông Nam Á và vùng sa mạc Sahara Châu Phi, xuất độ trung bình ở một số nước vùng Địa Trung Hải và xuất độ thấp ở vùng Bắc Âu, Mỹ, Canada và Châu Mỹ La Tinh. Carcinôm tế’ bào gan (CTBG) là loại ung thư gan thường gặp nhất, chiếm 80-90% ung thư gan nguyên phát, đa số ở khoảng 50 tuổi, nam mắc bệnh nhiều hơn nữ(22,24,4,1 14).
Theo Nguyễn Bá Đức(5), ung thư gan đứng hàng thứ ba ở nam và hàng thứ bảy ở nữ, trong 10 loại ung thư thường gặp nhất tại Hà Nội giai đoạn 2001-2004(18).
Theo Nguyễn Chấn Hùng và cộng sự tại Tp Hồ Chí Minh giai đoạn 2003-2004, trong 10 loại ung thư có xuất độ cao nhất thì ung thư gan đứng hàng thứ hai ở nam và hàng thứ năm ở
nữ(17).
Nguyên nhân cơ bản làm tần suất bệnh CTBG tăng cao ở vùng Đông Nam Á và Châu Phi là do tần suất nhiễm virút viêm gan B (HBV), virút viêm gan C (HCV) rất cao ở các vùng này. 60-90% bệnh nhân bị ung thư gan có biểu hiện kháng nguyên bề mặt của virút viêm gan B (HBsAg)(22,13,614). Mặt khác, những loại viêm nhiễm này thường gây xơ gan, mà chính xơ gan lại dễ dẫn đến carcinôm tế” bào gan(415). 77-90% trường hợp ung thư gan xảy ra trên nền xơ gan(1,23,69).
Hiện nay, có nhiều phương pháp điều trị CTBG như ghép gan, cắt bướu, sử dụng sóng siêu cao tần, tiêm cồn, hóa trị.. .Tuy nhiên nhiều tình huống lâm sàng ghi nhận có sự hoạt hóa viêm gan trong quá trình điều trị. Hoạt hóa viêm gan B do hóa trị ung thư trên bệnh nhân có mang HBsAg là vấn đề lâm sàng thường gặp nhất. Tỷ lệ hoạt hóa HBV thay đổi từ 10-72%. Bệnh cảnh lâm sàng phong phú từ tăng men gan có hồi phục đến suy gan tối cấp gây tử vong. Tỷ lệ tử vong thay đổi từ 4-60%(26,7,11,12).
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất