Đặc điểm tổn thương hệ gan mật qua hình ảnh siêu âm do sán lá gan lớn fasciolae spp. gây ra

Đặc điểm tổn thương hệ gan mật qua hình ảnh siêu âm do sán lá gan lớn fasciolae spp. gây ra

Sán lá gan lớn (SLGL) là bệnh của động vật đã và đang lưu hành tại nhiều quốc gia trên thế giới làm thiệt hại nền kinh tế nông nghiệp, gây ra bởi loài sán lá Fasciolae spp. Con người có thể nhiễm phải do ăn rau thủy sinh, uống nước lã hoặc tiếp xúc với các vật dụng nhà bếp có mang ấu trùng giai đoạn nhiễm (metacercariae). SLGL ở người lưu hành nhiều quốc gia phát triển (Pháp, Thỗ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Mỹ,…) và đang lan rộng, trong đó có Việt Nam; miền Trung- Tây Nguyên là khu vực có tỷ lệ bệnh nhân nhiễm nặng nhất ở Việt Nam.
Bệnh SLGL ở Việt Nam chủ yếu do loài Fasciola gigantica gây ra. Gần đây, dưới sự thay đổi của môi trường, tập quán ăn uống và nguồn nước không an toàn dẫn    đến    số    ca nhiễm    tăng    lên    đáng kể    tại    một    số    tỉnh    miền    Trung-Tây Nguyên. Sau khi con người nuốt phải ấu trùng, metacercariae đi xuyên qua ruột, chu du trong cơ thể và di chuyển đến gan rồi cuối cùng lưu lại hệ đường mật, ở đó
sán trưởng thành và có thể đẻ trứng. Bệnh nhân SLGL được phân giai đoạn dựa vào triệu chứng lâm sàng và các tổn thương trên SA. Giai đoạn cấp tính (< 4 tháng) có đau, sốt, tăng bạch cầu eosin, gan to và thời điểm này chính là sán xâm nhập vào gan; Giai đoạn mạn tính (> 4 tháng) biểu hiện các triệu chứng của cơn đau vùng gan, co thắt đường mật, vàng da nhẹ từng đợt, viêm đường mật tái đi tái lại,…khi đó trùng với thời điểm SLGL trưởng thành đã di chuyển đến hệ đường
mật.
Huyết thanh chẩn đoán rất giá trị vì độ nhạy và đặc hiệu cao cả giai đoạn mạn tính và cấp tính. Đôi khi, sự di chuyển của sán trong túi mật hoặc đường mật được phát hiện qua SA và được xem như là một phương thức chẩn đoán tốt và có độ nhạy hơn cả CT scanner trong giai đoạn sán ở đường mật (Richter và cs.,2006); biểu hiện hình ảnh là dày thành ống mật chủ (OMC), hình thể con sán đã chết nằm tại đó hoặc đang chuyển động bên trong OMC hay trong túi mật, dấu hiệu dãn và phù nề thành đường mật cũng phát hiện rõ ràng. Từ năm 2005-2007, Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn đã tiếp nhận và điều trị trên 3.000 ca mắc SLGL, qua đó có điều kiện khảo sát SA hệ gan mật một cách thấu đáo. Mặc dầu vậy, trong phạm vi nghiên cứu này chúng tôi tiến hành nhằm mục tiêu: mô tả đặc điểm tổn thương do SLGL trên SA trên 1.020 ca đã được khám và theo dõi điều trị.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.    Địa điểm và thời gian nghiên cứu:
–     Địa điểm: phòng khám và phòng siêu âm nội soi của Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn
–     Thời gian: từ tháng 1/2005-6/2007 (thời điểm bệnh nhân SLGL đến Viện cao nhất)
2.2.    Phương pháp nghiên cứu
–    Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả nhằm mô tả các đặc điểm và tính chất của các tổn thương do SLGL trên toàn bộ hệ thống gan mật bằng thủ thuật SA.
–     Đối tượng nghiên cứu: Tất cả bệnh nhân đã được chẩn đoán hoặc nghi ngờ bệnh SLGL.
–    Tiêu chuẩn chọn bệnh: BN có huyết thanh chẩn đoán FascELISA (+) với hiệu giá kháng thể (HGKT) > 1/3200 hoặc OD > 1.0. (Trị số HGKT < 1/3200 hoặc OD < 1.0 đều loại trừ).
2.3.    Kỹ thuật tiến hành
2.3.1.    Chuẩn bị bệnh nhân: không nhất thiết bắt bệnh nhân nhịn ăn trước đó, song với dạ dày xẹp, ít hơi, túi mật căng chứa nhiều dịch mật sẽ giúp cho SA quan sát thấu đáo hơn. Đầu tiên bệnh nhân nằm ngửa, tiếp đó có thể nghiêng (P) hoặc (T) tùy thuộc yêu cầu quan sát vùng.
2.3.2.    Máy siêu âm và đầu dò: Sử dụng máy siêu âm Aloka SSD-1100, Flexus, Tokyo,Japan có đầu dò tần số 3.5MHz hoặc 5MHz để thăm dò hệ gan mật. Nếu khối tổn thương nhỏ ở nông, hoặc thăm dò trên trẻ em, hoặc để đánh giá độ dày bao gan gần vùng tổn thương có thể sử dụng đầu dò Linear real-time 7MHz.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment