Đặc điểm về chức năng và hình thái của đảo tụy cô lập sau thời gian nuôi cấy ngoài cơ thể
Đái tháo đường type I (ĐTĐ type I) là một bệnh tự miễn được xác định bởi các rối loạn chức năng hệ miễn dịch do tổn thương tế bào beta sản xuất insulin của tiểu đảo tụy. Mặc dù cơ chế bệnh sinh chưa được chứng minh rõ ràng nhưng có những biểu hiện do rối loạn về cấu trúc gen [1] và do ảnh hưởng của một số yếu tố về môi trường [2], ảnh hưởng của chế độ ăn uống [3]. Hậu quả là gây ra sự tăng cao glucose trong máu và xuất hiện các thể cetonic trong hệ thống tuần hoàn do tế bào thiếu glucose. Nguyên tắc quan trọng trong điều trị là làm hạ mức glucose trong máu bằng cách bổ sung insu- lin trong tuần hoàn giúp cho glucose xâm nhập được vào trong tế bào dẫn tới hạn chế sự tăng cao nồng độ các thể cetonic [4].
Một phương pháp phổ biến hiện nay là tiêm insulin hàng ngày tuỳ theo mức độ của nồng độ glucose trong máu bệnh nhân. Điều hạn chế của phương pháp điều trị này là rất khó kiểm soát được biến chứng, trong đó đáng kể nhất là tai biến do dùng insulin quá liều hoặc nhiễm toan do dùng insulin không đúng cách và đủ liều. Hơn nữa phương pháp điều trị này luôn đòi hỏi phải định lượng được nồng độ glucose trong máu. Vì vậy, việc theo dõi điều trị gây nhiều tốn kém và phiền phức cho bệnh nhân đồng thời luôn cần có cán bộ y tế theo dõi. Để hạn chế các tai biến nói trên, việc phát triển các phương pháp điều trị mới để kiểm soát lượng insulin đưa vào cơ thể người bệnh trong giới hạn sinh lý là một việc làm cấp bách. Bổ sung tiểu đảo tụy thông qua ghép một số các tiểu đảo ngoại lai là một lựa chọn có nhiều triển vọng. Một ưu điểm quan trọng của phương pháp điều trị này là đơn giản hơn so với ghép cả tuyến tụy và liều thuốc ức chế miễn dịch phải dùng ít hơn. Tuy nhiên phương pháp này hiện nay chưa được nghiên cứu và ứng dụng tại Việt Nam. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
1. Đánh giá hình thái, chức năng của đảo tụy tách rời trong môi trường nuôi cấy.
2. Nghiên cứu chức năng bài tiết insulin của đảo tụy trong thời gian nuôi cấy 4 ngày.
I. CHẤT LIỆU, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Động vật
Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng 20 con chuột cống trắng Wistar, cả hai giống nặng 250 –
4. Quan sát đaỏ tụy bằng kính hiển vi quang học 300g, nuôi trong điều kiện đầy đủ thức ăn và nước uống tại khoa chăn nuôi viện Karolinska Stock- holm Thụy Điển.
2. Tách đảo tụy
Đảo tụy được cô lập theo phương pháp của Lacy, P.E. and M. Kostianovsky cải tiến [5] bằng cách thay thế việc cắt nhỏ đảo tụy rồi lắc trong bể ấm 370C. Dung dịch collagenase được bơm trực tiếp vào tuyến tụy qua ống tụy sau khi đã kẹp chặt bóng Vater không cho dịch chảy xuống ruột, sau đó toàn bộ tuyến tụy được ủ trong bể ấm 370C rồi ly tâm để thu được đảo tụy cô lập.
3. Nuôi cấy đảo tụy
Khoảng 50 – 100 đảo tụy được nuôi cấy trong đĩa petri bằng dung dịch RPMI 1640 với nồng độ glucose 11 mM kèm thêm 10% FCS, 100 U/ml penicillin và 100 mg/ml streptomycin sulphate. pH của dung dịch nuôi cấy luôn giữ ở 7,4 bằng cách cho thêm đệm Natri bicarbonate. Đảo tụy được ủ trong tủ ấm 370C trong 7 ngày với 95% Oxy và 5% carbon dioxide. Thể tích dung dịch sử dụng là 2,5 ml/đĩa. Dung dịch ủ được thay đổi 2 ngày/ lần. Nồng độ insulin trong dung dịch ủ đảo tụy được định lượng ở các thời điểm 6h, 24h, 48h,72h và 96h.
Ở ngày thứ 4 sau khi ủ, khoảng 300 đảo tụy được lấy ra một cách ngẫu nhiên từ môi trường, nhuộm haematoxylin và eosin (H & E) và quan sát hình thái để so sánh với đảo tụy chuột mới tách ra từ tụy. Đường kính lớn (a) và đường kính nhỏ (b) của 300 đảo tụy chọn ngẫu nhiên được đo từ góc phía tay phải bằng kính hiển vi quang học. Đường kính trung bình của 1 đảo tụy được xác định theo công thức:
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích