ĐẶC ĐIỂM VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN TÍNH HBeAg (-) TRÊN BỆNH NHÂN NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI

ĐẶC ĐIỂM VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN TÍNH HBeAg (-) TRÊN BỆNH NHÂN NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI

 ĐẶC ĐIỂM VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN TÍNH HBeAg (-) TRÊN BỆNH NHÂN NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI

Phạm Thị Lệ Hoa*, Phan Vĩnh Thọ*, Nguyễn V. Hảo*, Nguyễn Ngọc Vinh**, Lương T Huệ Tài**, 
Nguyễn Hồng Loan*, Vũ T Thúy Hà*** 
TÓM TẮT 
Cơ sở tiến hành nghiên cứu: Viêm gan B mạn HBeAg (-) được xem là thể bệnh thường gặp ở khu vực Đia Trung Hải, vùng lưu hành của genotýp D. Thể bệnh này được báo cáo với tỷ lệ ngày càng nhiều trên thế giới, vùng lưu hành của genotýp B, C, và D. Tạikhu vực châu Á, vùng lưu hành của genotýp B & C, tỷ lệ viêm gan HBeAg (-) có khi được báo cáo đến >50%  trong số viêm gan B mạn. Tại những khu vực lưu hành cao, viêm gan HBeAg (-) nên được xem là giai đoạn tiến triển muộn của bệnh hơn là nhiễm trùng ngay từ đầu của chủng HBV có đột biến precore. Tại  Việt Nam, chưa có nghiên cứu về thể bệnh này trên bệnh viêm gan B mạn nói chung hay riêng trên người xơ gan hay HCC. Nghiên cứu tiến hành nhằm mô tả mức độ tổn thương gan trên người viêm gan B mạn HBeAg (-) trên bệnh nhân nội trú nghĩa là đang trong 
đợt bệnh gan tiến triển. 
Phương pháp: mô tả cắt ngang thực hiện trên bệnh nhân viêm gan Bmạn điều trị nội trú. Các biến số HBVDNA, transaminase, tỷ lệ prothrombine, albumin máu, tiếu cầu máu được mô tả nhằm thể hiện mức độ tổn thương gan và có so sánh với nhóm HBeAg (+). 
Kết  quả:  Tỷ  lệ  bệnh  nhân  viêm  gan  B  mạn  HBeAg  (-)  nam  gấp  4  lần  nữ,  88%  >40  tuổi,  68%  có HBVDNA <7log copy/ml. 80% có giảm albumin máu <30g/l, 60% có tỷ lệ prothrombine ≤50% hay INR ≥2.3, 68% có tiều cầu giảm <150.000/ml và 100 có xơgan Child B hay C. Transaminase tăng không khác nhau so với nhóm HBeAg (+) nhưng bilirubine tăng nhiều hơn. 
Kết luận: Viêm gan B mạn HBeAg (-) gặp nhiều hơn ở phái nam, có biểu hiện lâm sàng thường muộn, bệnh nhân lớn tuổi hơn và HBVDNA thấp hơn nhưng có  tổn thuơng gan tiến triển nhiều hơn. Cần thực hiện thêm khảo sát trên bệnh nhân ngoại trú hay cácđối tương bệnh khác nhau để có hình ảnh đầy đủ hơn về thể bệnh này.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment