ĐẶC ĐIỂM VIÊM PHỔI Ở TRẺ SƠ SINH TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 TỪ 03/2007 ĐẾN 10/2007
ĐẶC ĐIỂM VIÊM PHỔI Ở TRẺ SƠ SINH TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 TỪ 03/2007 ĐẾN 10/2007
Nguyễn Thị Kim Anh, Phạm Thị Minh Hồng
TÓM TẮT :
Viêm phổi vẫn còn là nguyên nhân quan trọng gây bệnh tật và tử vong ở sơ sinh non tháng và đủ tháng. Trẻ sơ sinh dễ viêm phổi có thể liên quan đến sự chưa trưởng thành của hệ thống thanh lọc nhầy-lông, kích thước đường hô hấp nhỏ và sức đề kháng kém. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị viêm phổi ở trẻ sơ sinh nhập bệnh viện Nhi Đồng 2. Phương pháp: Tiền cứu, mô tả hàng loạt ca. Kết quả: 331 bệnh nhi vào lô nghiên cứu trong đó có 74 trẻ sanh non. Có 73 ca (22,1%) viêm phổi sớm, 258 ca (77,9%) viêm phổi trễ và 49 ca (14,8%) viêm phổi bệnh viện. Có 63 ca (19%) có yếu tố nguy cơ từ mẹ và có liên quan với viêm phổi sớm. Triệu chứng hô hấp thường gặp nhất là ran phổi, thở co lõm ngực và ho (79,3%; 78% và 69,8%). Triệu chứng không đặc hiệu thường gặp nhất là bỏ bú hoặc bú kém và ọc sữa (68,5% và 51,5%). XQ phổi có hình ảnh thâm nhiễm phế nang 79,2%. Bạch cầu, CRP trong giới hạn bình thường là 85,8% và 77%. Cấy máu dương tính 20 ca (8,7%). Trẻ cần,hỗ trợ hô hấp 139 ca (42%) trong đó 41% thở máy; 37,4% thở oxy và 21,6% thở NCPAP. Tỉ lệ tử vong do viêm phổi trong nghiên cứu là 7,3% (24 ca) và có mối liên quan với nhiễm trùng huyết, tim bẩm sinh và sanh ngạt. Kết luận: Đa số trẻ có yếu tố nguy cơ từ mẹ có liên quan với viêm phổi sớm nên cần theo dõi những trẻ này để phát hiện sớm VP. Tử vong trong viêm phổi sơ sinh thường kèm với các bệnh lý như nhiễm trùng huyết, tim bẩm sinh, sanh ngạt do đó cần theo dõi điều trị tích cực những trẻ này.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất