Đánh giá ảnh hưởng khác nhau của huyết áp tâm thu, tần số thở và điểm Glasgow khi vào viện đối với hậu quả của bệnh nhân chấn thương
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, chấn thương luôn là những vấn đề được quan tâm bởi tần suất hay gặp và những hâu quả nặng nề cả về sức khỏe và chi phí y tế. Trong cấp cứu chấn thương, tổn thương chức năng sống (bao gồm huyết động, hô hấp, tri giác) là nguyên nhân của đa số các trường hợp tử vong sớm do chấn thương. Tuy nhiên, ảnh hưởng của huyết áp tâm thu (HATT), tần số thở và điểm Glasgow đối với hâu quả chấn thương là không như nhau [7]. Ớ mỗi nước, do có sự khác nhau về cơ chế chấn thương, độ nặng của tổn thương cũng như chất lượng của hệ thống điều trị mà ảnh hưởng của các chỉ số này cũng khác nhau. Xác định được sự khác nhau về ảnh hưởng của các rối loạn chức năng sống có ý nghĩa thực tiễn trong chiến lược xử trí và tiên lượng bệnh nhân chấn thương. Tại Việt Nam, ảnh hưởng khác nhau của HATT, tần số thở và điểm Glasgow đối với hâu quả chấn thương vẫn còn chưa được nghiên cứu. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm hai mục tiêu:
1. Đánh giá ảnh hưởng khác nhau của HATT, tần số thở và điểm Glasgow khi vào viện đối với hâu quả của bệnh nhân chấn thương
2. Xác định hệ số của HATT, tần số thở và điểm Glasgow trong đánh giá độ nặng chấn thương
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CÚU:
1. Đối tượng nghiên cứu:
Tiêu chuẩn lựa chọn là những bệnh nhân có chấn thương vào phòng khám cấp cứu của 3 bệnh viện lớn lựa chọn trong thời gian nghiên cứu, tuổi > 10, không có tiền sử bệnh nội khoa, và chưa được xử trí can thiệp tại bệnh viện.
Tiêu chuẩn loại trừ: những bênh nhân tử vong do các nguyên nhân khác, không liên quan đến chấn thương, hay không thu thập đủ các thông số nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu đa trung tâm, mô tả, tiến cứu.
Nghiên cứu được tiến hành tại 3 bênh viên lớn là bênh viên Việt Đức, bênh viên Saint Paul, bênh viên Quân y 103 trong thời gian từ 1/2006 đến 12/2008.
Nghiên cứu nằm trong dự án “Nghiên cứu phòng ngừa tai nạn thương tích” của Cục y tế dự phòng. Bênh nhân được đánh giá tại phòng khám theo một mẫu phiếu in sẵn, bằng cách hỏi bênh nhân hoặc người đi cùng hoặc trực tiếp qua thăm khám. Tần số thở, HATT, điểm Glasgow được đánh giá ngay tại phòng khám, trước khi có các can thiêp (đặt đường truyền, sonde dạ dày, oxy liêu pháp). Bênh nhân được theo dõi đến khi ra viên hay tử vong.
Tổn thương giải phẫu: số vùng chấn thương, điểm ISS tính theo AIS 2005 (thang điểm độ nặng tổn thương giải phẫu). Tổn thương chức năng sống: tính điểm RTS thông thường (điểm chấn thương sửa đổi). HATT được coi là rối loạn khi < 90mmHg, tần số thở rối loạn khi < 10 hay > 29 lần/phút, điểm Glasgow rối loạn khi < 12 (rối loạn tri giác trung bình). Tử vong là trường hợp tử vong tại viên hay quá nặng xin về. Sống là bênh nhân được ra viên mà không cần hỗ trợ hô hấp hay tuần hoàn.
Số liêu được lưu giữ và xử lý trên máy tính bằng phần mềm SPSS 10.0. Sử dụng phép hồi quy đơn để xác định yếu tố nguy cơ và hồi quy đa nhân tố để xác đinh yếu tố nguy cơ độc lập và các hê số độ nặng chấn thương. Các sự khác biêt được coi là có ý nghĩa thống kê khi p < 0.05.
II. KẾT QUẢ NGHIÊN cúư:
1. Cỡ mẫu và đặc điểm dịch tễ học:
Tổng số có 4773 bênh nhân trong nghiên cứu. Có 504 bênh nhân tử vong (10.6%).
Tuổi trung bình trong nghiên cứu là 34.5 ± 12.6. Độ tuổi 20 – 49 chiếm 69.8%.
3741 bênh nhân nam (78.4%), 1032 bênh nhân nữ (21.6%).
Tai nạn giao thông chiếm tới 3216 bênh nhân (67.4%), cao hơn so với tai nạn lao động và tai nạn sinh hoạt (p < 0.01). Đây cũng là loại tai nạn có tỷ lê tử vong cao nhất (12.2%).
Đa phần bênh nhân chỉ có 1 vùng bị chấn thương (3681 bênh nhân), chiếm 77.1%.
Số bênh nhân đa chấn thương chiếm 17.1% trong nghiên cứu. Tỷ lê tử vong ở nhóm này là 30.2%, cao hơn hẳn nhóm còn lại (p < 0.01). OR = 6.2 (5.1 – 7.6).
Điểm RTS trung bình là 11.13 ± 1.62, các giá trị đi từ 0 đến 12. Điểm ISS trung bình là 12.54 ± 9.00, các giá trị đi từ 0 đến 66
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích