Đánh giá bước đầu tác dụng của thuốc chống trầm cảm trong điều trị hội chứng đau mạn tính
Công trình nghiên cứu đối sánh trên 32 bênh nhân có hội chứng đau mạn tính, trong đó 16 bênh nhân đ-ợc đieu trị thuốc CTC và 16 bênh nhân đieu trị đơn thuần thuốc giảm đau. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra hiệu quả v-ợt trội của thuốc CTC đieu trị các chứng đau mạn tính. Thuốc CTC đã làm thuyên giảm và ổn định nhanh hơn các chứng đau và các triệu chứng phối hợp kèm theo (rối loạn giấc ngủ, trầm cảm, lo âu, cảm giác ng- ời mệt mỏi, vô lực, chóng mặt, loạn cảm giác bản thể). Thuốc CTC đã làm giảm đ- ợc gần một nữa thời gian đieu trị bệnh (TB: 37 ngày) so với nhóm chỉ đieu trị đơn thuần bằng thuốc giảm đau (TB: 82,3 ngày). Các tác dụng phụ của thuốc CTC (khô miệng, mạch nhanh, khó đái, HA giảm, táo bón) xuấ’t hiện sớm vào tuần lễ đầu và sẽ mấ’t dần đi sau 10-15 ngày đieu trị mà không cần phải can thiệp.
Gần 20 năm nay, các thuốc chống trầm cảm (CTC) đ-ợc sử dụng đieu trị các chứng đau khác nhau, đặc biệt trong những chứng đau kéo dài không tìm thấy nguyên nhân thực thể. Nhieu công trình nghiên cứu đã cho thấy đặc tính chống đau của các thuốc chống trầm cảm [4],[5]. Việc sử dụng các thuốc chống trầm cảm đieu trị các chứng đau trong các khoa lâm sàng đ- ợc xuất phát từ các công trình nghiên cứu ve cơ chế đau mạn tính [1],[2],[3],[4]. Các công trình nghiên cứu ve lâm sàng và đieu trị đeu cho thấy 50% tr- ờng hợp rối loạn trầm cảm đổng phát với chứng đau mạn tính. Đến nay nhieu tác giả nhận xét rằng đau mạn tính không còn đ-ợc xem nh- một triệu chứng, mà đúng hơn là xem nh- một thực thể đ-ợc xác định bởi toàn bộ các nhân tố sinh lý, cảm xúc và tâm lý. T rầm cảm phản ánh một thành phần ve xúc cảm, là nhân tố chủ yếu của những đieu than phien ve đau. Đieu này cho thấy đau và trầm cảm có mối quan hệ tâm – sinh học chặt chẽ trong cơ chế hình thành và diễn biến chứng đau mạn tính. Trên cơ sở đó một số tác giả [3],[4],[6] đã chỉ định thuốc chống trầm cảm cho những bệnh nhân nội ngoại khoa trong bệnh viện. Trong đó 56% cho các trạng thái trầm cảm, 30% cho trạng thái đau và 14% cho các lý do khác. ở Việt Nam, nhận thức vấn đe này từ những năm 83 và đ- ợc áp dụng rộng rãi vào trong lâm sàng tâm thần học tại Viện sức khoẻ tâm thần bắt đầu từ năm 92 trở lại đây. Tuy thế, cho đến nay chúng tôi ch-a thấy có báo cáo nào đe cập đến hiệu quả chống đau của thuốc chống trầm cảm. Để làm sáng tỏ đặc điểm lâm sàng của hội chứng đau và trầm cảm, cũng nh- đánh giá hiệu quả đieu trị của thuốc chống trầm cảm trên bệnh nhân có hội chứng đau mạn tính, chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đe này nhằm mục đích:
1. Sơ bộ đánh giá tác dụng cũa thuốc CTC và rút ra hiệu quả liều điều trị trung bình thuốc chống trầm cảm trên bệnh nhân có hội chứng đau mạn tính.
2. Nhận xét một số tác dụng phụ không mong muốn th- ờng gặp trên bệnh nhân đ- Ợc chỉ định thuốc CTC, từ đó h- ỡng tới biện pháp khắc phục.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích